Trang Thông tin điện tử

Huyện Kim Sơn

Thứ năm, 21/11/2024

Chào mừng bạn đến với Trang thông tin điện tử huyện Kim Sơn

17 GIAI THOẠI VỀ NGUYỄN CÔNG TRỨ

Thứ sáu, 28/12/2018 3481 lượt xem
  • Đánh giá cho bài viết:
  • 0 điểm ( 0 đánh giá )

Lời người biên soạn: Trong số những câu chuyện vừa sưu tầm, Giang Đình xin chọn lọc biên soạn và đưa vào tập sách 17 giai thoại tiêu biểu,với mong muốn dựng lên một chân dung cụ Thượng Uy Viễn -  Nguyễn Công Trứ qua cái nhìn “dân gian” .

  1. NGÔNG NGAY TỪ LÚC CHÀO ĐỜI…

                Ngày mồng Một tháng Mười một năm Mậu Tuất (1778), tại tư gia của viên quan Tri huyện Quỳnh Côi, Thái Bình, bà huyện họ Nguyễn, sau cuộc vượt cạn kinh hoàng đã sinh hạ được một cậu con trai thân dài, trán rộng, mũi cao.

Các cụ xưa nói Trai mồng một, gái ngày rằm quả không sai - vừa mới lọt ra khỏi lòng mẹ, cậu bé đã tỏ ngay sự ngông bướng của mình bằng cách không chịu mở mắt nhòm và không thèm mở miệng khóc như những đứa trẻ sơ sinh khác. Người nhà và hàng xóm đưa hết nồi đồng, mâm thau đến khua gõ liên hồi, cậu cũng điềm nhiên mặc! Chỉ đến khi cả đám người lớn đã mỏi rã rời, xuôi tay lắc đầu thì cậu mới dõng dạc cất tiếng khóc đầu tiên oang oang như tiếng chuông đồng!

Người cha của đứa bé mừng khôn xiết, vì ông vốn hiếm muộn, năm đó đã ngót nghét lục tuần mới có được cậu con trai nối dõi. Là một nhà Nho hay chữ, nghĩ đây cũng là một điềm triệu báo điều hỉ, ông bèn ra thư phòng lấy giấy bút đặt tên cho con trai. Ông chọn cho cậu quý tử bướng bỉnh tên huý là Củng - theo chữ Nho có nghĩa là bền chặt, vững vàng; còn tên chữ là Trứ - nghĩa là rõ ràng, nổi trội.

Cậu bé đó chính là Uy Viễn Tướng công Binh bộ Thượng thư Nguyễn Công Trứ tương lai, và cũng là nhà thơ trác việt kiêm tay chơi số một một thời. Cả cuộc đời của cậu Củng - Trứ về sau quả đúng như những quan sát dân gian và ước vọng thầm kín của người cha già - bền gan vững chí và lẫy lừng sáng tỏ!

 

  1. NGOÀI VƯỜN - TRONG BUỒNG!

Thuở nhỏ, cậu bé Củng học rất giỏi, thông minh dĩnh ngộ hơn thiên hạ, lại tinh nghịch, lém lỉnh chẳng ai bì, nổi tiếng “Thần đồng”. Tài cao trí sắc, đọc rộng nhớ nhiều, những câu đối đáp lỗi lạc của cậu bé Củng gây cho mọi người nỗi kinh ngạc và thú vị. Khoảng 10 tuổi, Củng theo cha trở về Hà Tĩnh, sống tại làng Uy Viễn, Nghi Xuân quê nội. Trong làng có ông Đồ Trung là một người có máu mặt; ông đứng ra mời thầy đồ về nuôi trong nhà để trẻ con của làng tới học. Và trong đám học trò đó có cậu bé Củng.

                Một hôm, khi cả lớp đang ngồi học, ông chủ nhà chợt nổi hứng đi vào và xin thầy cho phép ông ra cho các trò một vế đối. Được thầy đồng ý, ông Đồ Trung nói:

- Ta có câu đối này, trò nào đối hay và đối nhanh trước sẽ được thưởng một quan tiền!

Rồi ông ta chỉ về phía cây đại đứng ngoài vườn, đọc vế đối:“Ngoài vườn cây đại nở hoa đại”.

Các học trò ngồi nhìn nhau, mặc dù rất thèm quan tiền (với các cậu đó là một giấc mơ lớn), nhưng không ai tìm được vế đối lại để lấy.

Thấy cả lớp im lặng, thầy học lên tiếng giục, thì chỉ có cậu bé Củng ra vẻ ngập ngừng khó nói. Thầy hỏi:

- Trò Củng, sao không đối đi?

Củng khép nép thưa:

- Thưa, con sợ bị quở phạt ạ.

- Trò cứ đối, - ông chủ nhà khuyến khích ra vẻ rộng lượng, - nếu hay thì ta sẽ thưởng cho, còn nếu có điều gì sơ suất thì ta và thầy cũng không bắt lỗi trò đâu.

Được lời, Củng nghiêm chỉnh đứng dậy đọc:

- Thưa, con xin đối là“Trong buồng ông Trung ấp bà Trung” ạ!

- Hay quá! Chuẩn quá! Trong đối với ngoài, Đại đối với Trung, và nở thì tất nhiên phải đối với ấp rồi!

Thầy và trò cả lớp được một trận cười nghiêng ngả, còn ông chủ nhà Đồ Trung thì đỏ mặt im lặng, và tất nhiên, phải trao cho Củng một quan tiền!

  1. TƯỞNG MẦN BA TRỰ…

                Nhận được quan tiền thưởng, tan buổi học trên đường về Củng gặp một đám trẻ con đang tụ nhau đánh đáo ăn tiền. Như những đứa trẻ ham chơi khác, Củng liền nhập bọn; và cũng như những đứa trẻ mải chơi khác, cậu say sưa đánh cho tới khi bị thua hết sạch cả quan tiền mới thôi. Nhưng cái khác của Củng là ở chỗ, mọi đứa trẻ khi thua bạc sẽ tiếc đứt ruột, hậm hực bỏ về, thậm chí cả khóc nữa, còn Củng thì vừa đi về nhà vừa đọc:

Tưởng mần ba trự mà chơi vậy,

Bỗng chốc nên quan đạ sướng chưa?!

Thật ra, đây có thể chỉ là một câu nói buột miệng, lúc đó cậu trò Củng chắc không cố ý làm thơ; nhưng nó đã bộc lộ tính cách ngang tàng, phóng túng, “tay chơi” của Nguyễn Công Trứ, mà người đời sẽ gọi là thơ văn khẩu khí; và câu nói đó được truyền tụng khắp làng, rồi đi vào sách vở, lan ra khắp thiên hạ… thành giai thoại, thành thơ.

  1. SẴN GÁNH CÀN KHÔN GHÉ THẲNG VAI

Vào một ngày hè nóng nực, thầy học dẫn cả đám học trò đi ra con sông cách trường độ hơn một cây số để tắm mát, hòng làm dịu bớt cái nóng ghê người của xứ Nghệ. Khi đi qua cái cống lớn đầu làng được xây ghép bằng những tảng đá xanh, thầy tức cảnh nghĩ ra một vế đối Nôm, bảo các trò cùng đối:

Đá xanh ghép cống, hòn dưới nống hòn trên.

Trong khi các trò khác đang vắt óc suy nghĩ thì cậu Củng đã có ngay vế đối:

Ngói đỏ lợp nghè, lớp sau đè lớp trước.

Câu đối về chữ nghĩa thật là chuẩn, lại chơi chữ tài tình: “cống” vừa là cái cống (bằng đá), vừa là người đỗ Cử nhân (Cống sinh dưới triều nhà Nguyễn); còn “nghè” vừa là cái miếu nhỏ thờ các danh nhân địa phương (từ này nay đã ít dùng), vừa là người đỗ Tiến sĩ, tức ông Nghè; thêm vào đó người đời còn tìm thấy cái thú vị ở khẩu khí của người đối: hậu sinh sẽ khả uý, lớp sau sẽ hơn (đè) lớp trước!.

                Đang nói chuyện thì một trận mưa to ập đến, thầy trò phải vội vàng chạy vào xin trú trong một quán nước ven đường. Ngay lúc đó có một người đàn ông gánh cỏ đi ngang cũng vội quẳng gánh ngoài trời chạy vào mái hiên của quán trú mưa. Lát sau, trời vừa ngớt, người đàn ông đã vội vã ra nâng gánh cỏ lên vai chạy đi tiếp. Nhân đó, thầy bảo các trò thử làm vài câu thơ tức cảnh nói về người gánh cỏ nọ. Trong khi các cậu bé khác đang vò đầu tìm chữ nghĩa thì trò Củng đã ứng khẩu đọc hai câu:

Tạnh cơn phong vũ lò ngay mặt,

Sẵn gánh càn khôn ghé thẳng vai.                

                Thầy học và tất cả mọi người trong quán đều tấm tắc khen hai câu thơ tuyệt diệu của Củng, vừa hợp cảnh, vừa bộc lộ chí khí của một đấng trượng phu tương lai. Còn về phép đối thì khỏi phải nói: hoàn chỉnh, chan chát từng ý, từng chữ - “cơn phong vũ” đối với “gánh càn khôn”, “ngay mặt” đối với “thẳng vai”…

                Và thầy càng khẳng định dự đoán trò Củng về sau sẽ làm nên công to nghiệp lớn.

  1. KHẢ ÚY ĐOAN ĐOAN ĐÍCH HẬU SINH

                Vừa mới lên tỉnh học được ít lâu, một chiều nọ đẹp trời, Nho sinh Củng lang thang dạo phố thì bỗng gặp một đoàn xe ngựa của quan Tuần phủ đi hành hạt, dù lọng nghênh ngang, tiền hô hậu hoán. Đang lớ ngớ không biết đường tránh, cậu vô tình cản đường đoàn người ngựa và bị toán lính hầu bắt tới trình quan về tội vô lễ. Cậu trò vừa bị giải đến nơi, đã nghe quan quát hỏi:

- Sao cậu dám thất lễ với bản quan?

- Bẩm quan lớn, tiểu sinh nguyên học ở trường làng, vừa mới lên tỉnh chưa biết rõ các nghi lễ nên mới vô tình vô lễ, xin quan lớn dung thứ.

- À, nếu cậu đúng là sĩ tử trường Đốc học, bản quan sẽ ra một vế đối, cậu đối hay thì được tha, bằng không sẽ bị giam về tội “phạm thượng”!

Rồi quan đọc:

- Khách khoa bảng, khách văn ch­ương, giữa quan khách, khách lại gặp khách.

Không nghĩ ngợi lâu, Nho Củng ứng khẩu đối ngay:

- Ai anh hùng, ai hào kiệt, trong trần ai, ai dễ biết ai!

Củng lại tung ra một câu thơ khẩu khí! Quan Tuần phủ nghe xong hết lời khen cậu là kẻ thiếu niên mà chí khí lớn lao, nên chẳng những tha lỗi cho mà còn thưởng thêm một quan tiền đồng (trị giá bằng sáu quan tiền kẽm).

Rồi quan quay sang nói với các vị đồng hành:

- Quả là Khả úy đoan đoan đích hậu sinh.

Đây vốn là một câu cổ thi, nghĩa là: “Kẻ hậu sinh nầy rất đáng sợ”.

 

  1. ĐỐI ĐÁP VỚI SƯ

Gần làng Uy Viễn của Nguyễn Công Trứ có một ngôi chùa, vị sư trụ trì ở đây là người tài cao học rộng nhưng rất kiêu ngạo, hiếu thắng. Ông này thường tự cho mình là nhất thiên hạ, xem thường cả Nho Củng vốn từ lâu đã nổi tiếng thần đồng khắp vùng. Biết vậy, Nho Củng cũng hiếu thắng tìm dịp gặp thử tài cao thấp.

Nhân một hôm rảnh học từ tỉnh thành về thăm nhà, Nho Củng bèn tìm tới chùa nọ chơi. Đến nơi, thấy ngoài sân trong điện không có ai, Củng lại đang khát nên đi thẳng vào bếp chùa để tìm nước uống, thì gặp sư trụ trì đang lúi húi bên bếp. Quay lại nhìn người lạ, vị sư buông ra một câu không mấy hiếu khách:

Khách khứa kể chi ông núc bếp.

Cậu Củng nhìn quanh, thấy một cái vại (đồ bằng sành dùng để muối cà hay d­ưa) ở góc bếp, liền ứng khẩu đối lại:

Trai chay mà có vại cà sư?.

                Câu này thực ra được nói lên rất vô tình, nhưng vị sư kia lại cho rằng Nho Củng thâm ý châm biếm mình có tư­ tình với bà vãi, nên chắp tay nhìn lên tượng Phật đọc một câu như thanh minh cho sự đứng đắn của mình:

                Xin chứng minh cho, Nam mô A Di Đà Phật.

Nho Củng chỉ vào cái kiềng trên bếp và cất tiếng đối lại:

                Có giám sát đó, Đông Trù Tư­ mệnh Táo quân!

Đông trù Tư ­mệnh Táo quân là thần coi bếp, cầm giữ bản mệnh của gia chủ. Bên mời Phật, bên nhờ thần ra minh chứng, quả thực là hay; lại Đông đối với Nam, Quân đối với Phật thì thật là tài!

Đến đây thì vị sư vừa tức vừa hoảng, không ngờ gặp phải đối thủ trẻ tuổi mà cao cường đến vậy, liền hạ một chiêu cuối cùng, vừa vỗ ngực ta đây vừa hăm doạ đối thủ:

Thuộc ba mươi sáu quyển kinh, chẳng thiên địa thánh thần nhưng khác tục!

Nho Củng cũng quyết định tung một đòn hạ gục:

Hay tám vạn tư­ mặc kệ, không quân thần phụ tử đếch ra người!

Tới đây vị sư đành nín thinh, chấp nhận thua cuộc, từ đó không dám cao ngạo nữa.

Lại có người kể, chuyện chưa dừng ở đấy. Nho Củng đắc thắng ra về, nhưng vừa bước đến giữa sân thì hai con chó nhà chùa xổ ra cắn, cắn quyết liệt như thể trả thù cho chủ vậy. May có chú tiểu ngăn mãi mới được. Nho Củng dừng lại nhìn quanh chùa rồi ngâm hai câu như một lời nhắn gửi:

Bụt cũng hiền lành, sư cũng khá,

Còn hai con chó chửa từ bi.

 

  1. BA VẠN ANH HÙNG ĐÈ XUỐNG DƯỚI

Một lần có việc đi xa, trời rét, chàng học trò Nguyễn Công Trứ ghé vào quán nước bên đường nghỉ chân, rồi rúc vào ổ rơm trong quán ngủ nhờ. Vừa lúc đó, Tả quân Lê Văn Duyệt dẫn một đạo quân đi ngang qua cũng ghé vào quán. Những người trong quán thấy quan quân rầm rập thì sợ hãi nép tận vào các góc xa, riêng Nguyễn Công Trứ vẫn đắp chiếu nằm trên ổ rơm ngủ khì như không có chuyện gì xảy ra. Một viên quản cơ thấy vậy nạt nộ om sòm, hất chiếu đánh thức kẻ vô lễ dậy. Chàng thư sinh điềm nhiên, chậm rãi ngồi lên, không tỏ vẻ gì là sợ hãi cả. Thấy vậy, Tả quân Lê Văn Duyệt lấy làm lạ, hỏi:

- Nhà ngươi là ai, mà thấy đạo quân của ta đến vẫn cứ nằm lì, không đứng dậy chào cho phải phép? Ngươi không sợ ta trách phạt hay sao?

Chàng học trò khôn khéo đáp lời quan:

- Bẩm quan lớn, tiểu sinh vốn biết đạo quân của ngài là đạo quân nhân nghĩa, chẳng vô cớ làm hại ai bao giờ, nên không việc gì phải sợ. Vả lại, tiểu sinh là học trò, đi đường xa mệt, gặp trời mưa lạnh lại có ổ rơm ấm quá nên trót ngủ quên mất ạ.

Thấy Nguyễn Công Trứ quả có dáng vẻ nho nhã, Tả quân liền bảo:

- Nếu ngươi đúng là học trò thì hãy làm vài câu thơ vịnh cảnh nằm ổ rơm đắp chiếu như vừa rồi, nếu hay ta sẽ tha, bằng không sẽ chịu phạt đó.

Cậu Nho sinh dường như chỉ đợi có thế, ứng khẩu đọc ngay:

Ba vạn anh hùng đè xuống dưới

Chín lần thiên tử đội lên trên.

Tả quân Lê Văn Duyệt nghe xong, giật mình khen hay, hỏi tên tuổi, thưởng cho Trứ một số tiền rồi thả cho đi, và ghi nhớ trong lòng về người học trò kì tài ấy.

  1. Ứ HỰ ANH HÙNG NHỚ CHĂNG

                Thuở hàn vi, và cả khi đã công thành danh toại, chức trọng quyền cao, hay khi đã về già cưỡi bò ngao du sơn thuỷ, Nguyễn Công Trứ vẫn rất mê ca hát - nhất là hát Phường Vải và Ca Trù.

                Gần làng Uy Viễn có làng Cổ Đạm là một phường Ca Trù nổi tiếng vào loại nhất nước, có nhiều đào nương tài giỏi và xinh đẹp, trong số đó có nàng tên là Hiệu Thư. Tương truyền cô đào ấy phong tư diễm lệ, tài hoa xuất chúng, giọng hát tuyệt hay, nhưng tính tình có lẽ vì thế mà kiêu kì, chỉ tiếp những vương tôn công tử, những người nổi danh trong chốn. Nguyễn Công Trứ say mê Hiệu Thư, nhưng vì nhà nghèo, không thể quen thân gần gũi được nên đành “kính nhi viễn chi” mà thôi. Nhân vốn là một tay đàn giỏi có tiếng trong vùng, cậu Nho sinh Trứ liền tìm cách xin vào làm kép cho Hiệu Thư, thường nàng đi hát ở đâu thì chàng cũng được cắp đàn đi theo.

Một tối nọ gánh Ca Trù Cổ Đạm được mời sang hát ở Vĩnh Yên cách đó khá xa, Hiệu Thư được điều đi phục vụ, và nàng xin ông bầu gánh mời Nguyễn Công Trứ - lúc này vừa đậu Giải nguyên nhưng chưa được triều đình gọi, vẫn là hàn sĩ sống ở quê - đi theo cùng để vừa hoạ đàn vừa đặt lời ca. Trên đường đi, không biết vì cớ gì mà hai người - chàng và nàng - tụt lại sau mọi người, chỉ có một đứa tiểu đồng nhỏ theo hầu. Mải mê nói chuyện, lúc đến giữa cánh đồng rộng, Nguyễn Công Trứ giả vờ sửng sốt vì phát hiện ra mình đã bỏ quên dây đàn ở nhà, và ngon ngọt nhờ chú tiểu đồng chạy về lấy hộ. Thế rồi… trên cánh đồng lúa giập giờn chỉ còn trai tài gái sắc… cũng giập giờn… và…tiếng “Ứ hự” vang lên kì diệu, lạ lùng.

Ít ngày sau đêm đó, Giải nguyên Trứ được triệu vào Kinh nhậm chức…

Rồi nhiều năm trôi qua…Nguyễn Công Trứ đã trở thành Tham tri bộ Binh kiêm Tổng đốc Hải An. Một lần, nhân ngày vui ông cho tổ chức cuộc hát xướng tại tư dinh, nhờ các quan sở tại mời các danh ca đến phục vụ. Chẳng ngờ trong số những người được mời đến lại có cả cô đào Hiệu Thư. Khi bước ra trình diễn, ngước mắt trông lên, nhận ra quan Tổng đốc ngồi nghe hát kia chính là chàng kép Trứ ngày nào trên cánh đồng lúa huyện nhà, nàng liền cất giọng:

Giang san một gánh giữa đồng,

Thuyền quyên “ứ hự” anh hùng nhớ chăng?

Nghe câu hát, Nguyễn Công Trứ như giật mình bởi một cảm giác vừa nhói đau, vừa ngọt ngào từ đâu đó sâu trong kí ức hiện về. Định thần nhìn lại nàng ca kĩ vừa hát lên câu đó, quan Tổng đốc chợt thảng thốt hỏi:

- Có phải… Hiệu Thư đó không?

Khi cuộc hát tàn, hai người ngồi lại tâm sự, nàng kể cho chàng nghe quãng đời chìm nổi, phiêu bạt của mình kể từ đêm cánh đồng năm ấy… Khi biết Hiệu Thư vẫn chưa có chồng, quan Tổng đốc liền quyết định cưới nàng làm thiếp.

Ghi lại câu chuyện trên, thi sĩ Nguyễn Công Trứ để lại một bài thơ:

Liếc trông đáng giá mấy mười mươi

Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười,

Giăng xế nhưng mà cung chẳng khuyết

Hoa tàn song lại nhuỵ còn tươi.

Chia đôi duyên nợ, đà hơn một

Mà nét xuân kia vẹn cả mười,

Vì chút tình duyên nên đằm thắm

Khéo làm cho bận khách làng chơi.

 

  1. “ĐÔI SÂN KHẤU” - MỘT KHÚC CẦM”!

                Nguyễn Công Trứ là kẻ rất phong lưu, đào hoa, thích hát xướng, cô đầu, trăng gió, khi còn bạch diện thư sinh hay đã đỗ làm quan lẫn lúc về già trí sĩ, vẫn mê rong chơi, hát xướng.

                Chuyện kể rằng, một lần Nghè Tân gửi tặng cụ Trứ đôi câu đối:

                Giang sơn tóm lấy đôi sân khấu

                Văn vũ ra tay một khúc cầm.

                Nhận được, mọi người xem xong xúm vào khen rối rít. Đúng là câu chữ nói về cụ Thượng Trứ: nào “giang sơn”, nào “sân khấu”, nào “văn vũ”, nào “khúc cầm” (khúc đàn)... Riêng khổ chủ Nguyễn Công Trứ chỉ lặng im tủm tỉm cười ruồi. Thấy thế, mấy người bạn của cụ lấy làm lạ, họ cố suy nghĩ, và cuối cùng rồi cũng hiểu. Thì ra “giang sơn” ở đây là từ câu thơ của một đào nương tặng cụ mà ai cũng biết:.

                Giang sơn một gánh giữa đồng

                Thuyền quyên ứ... hự... anh hùng nhớ chăng?

                Còn “tóm lấy đôi sân khấu” đối với “ra tay một khúc cầm” (cầm một khúc!) thì quả là vừa hay, chuẩn, vừa… nghịch ngợm... Người được nói tới làm sao không cười tủm cho được!

  1. LÀM TƯỚNG KHÔNG VINH, LÀM LÍNH KHÔNG NHỤC

                Đến Quảng Ngãi, Nguyễn Công Trứ, lúc đó chỉ là một tay lính trơn, thản nhiên vào trình diện quan Tổng đốc sở tại. Vốn vì trước kia đã có lần chịu ơn Nguyễn Công Trứ nên viên quan đầu tỉnh tiếp đãi ông lính già rất tử tế, thấy tình cảnh một người từng là Thượng thư nay thất thế đến mức như vậy thì tỏ ra rất áy náy, bất yên, muốn cho phép Cụ cởi đồ lính ra, nhưng Nguyễn Công Trứ nói:

                - Xin ngài cứ để vậy. Lúc làm Đại tướng tôi không lấy làm vinh, thì nay làm tên lính tôi cũng không lấy làm nhục. Người ta ở địa vì nào, có nghĩa vụ đối với địa vị ấy, làm lính mà không mang đồ ấy thì sao gọi là lính được.

                Lúc ấy Nguyễn Công Trứ vừa 65 tuổi. Cái tư cách của con người khi làm Ðại tướng chẳng cậy làm vinh mà khi làm lính không lấy làm nhục càng khiến viên quan đầu tỉnh kính phục. Ông tâu vua, xin xét lại vụ án buôn lậu ở An Giang. Quan Án sát Trần Ngọc Ðao được lệnh điều tra đầy đủ chi tiết, khi trở về kinh tâu trình lại với vua rằng Nguyễn Công Nhàn đã phạm tội vu cáo; Nhàn bị trị tội nặng và Nguyễn Công Trứ lại được bổ nhiệm chức Chủ Sự ở Bộ Hình rồi lại Án Sát Quảng Ngãi, kế đến Thự Phủ Thừa Thiên.

  1. VỊNH CÂY VÔNG

                Nhân đà đối đáp, Nguyễn Công Trứ lại đọc thêm một câu cổ văn nữa:

                - Cùng, thông, đắc, táng, bỉ thương mặc phó kì quyền.

                Nghĩa là: Cùng,thông, thua, được, trời xanh giao phó quyền hành.

                Câu này cũng có chữ “quyền” ở sau cùng, và cũng để thách thức Hà Tôn Quyền đối lại, nhưng Nguyễn Công Trứ còn có thâm ý nói rằng Hà Tôn Quyền khéo nịnh nên mới được nhà vua giao phó cho quyền hành.

Không tìm được câu cổ văn nào có chữ “trứ” sau cùng để đối lại, Hà Tôn Quyền đành ấm ức chịu một phen “lấm lưng trắng bụng”, chờ dịp phục thù.

Nhân có con vừa thi đậu Cử nhân, Hà Tôn Quyền mở tiệc ăn mừng, có mời cả Nguyễn Công Trứ cùng dự. Giữa bữa tiệc, mượn hơi rượu, Hà Tôn Quyền chỉ ra cây vông đang nở hoa ngoài sân, ra một đề thơ “Vịnh cây vông” yêu cầu các quan khách cùng vịnh chơi, tất nhiên người mà ông chủ nhắm vào đầu tiên là Cụ Trứ. Để bắt bí, ông ta lại hạn bài thơ phải lấy vần “ông/bông”.

Trong số quan khách không thiếu những người hay chữ, nhiều người đã tham gia cuộc chơi, nhưng rốt cuộc bài của Nguyễn Công Trứ được mọi người công nhận là hay nhất.

 VỊNH CÂY VÔNG

                Biền, nam, khởi tử chẳng vun trồng

Cao lớn làm chi những thứ vông.

Tuổi tác càng già, già xốp xáp

Ruột gan không có, có gai chông.

Ra tài lương đống không nên mặt

Dựa chốn phiên li chút đỡ lòng.

Đã biết nòi nào thì giống nấy

Khen cho rứa cũng trổ ra bông!

                Bài thơ đúng là một cái tát vào mặt chủ nhân! Nguyễn Công Trứ vịnh cây vông, nhưng cả tám câu thơ đều nhằm vào công kích ông Quyền. Hai câu luận 5 và câu 6 chỉ rõ Hà Tôn Quyền không phải là lương đống quốc gia mà chỉ là hạng người nương tựa uy thế nhà vua mà thôi. Nhưng đặc biệt nặng đòn và hợp cảnh là hai câu kết Đã biết nòi nào thì giống nấy / Khen cho rứa cũng trổ ra bông!

  1. NGAY LÒNG Ở VỚI NƯỚC NHÀ

                Khi cụ Trứ đã về hưu nhưng vẫn được nhân dân hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn nhớ ơn khẩn điền cho họ làng quê, việc làm nên lập sinh từ Cụ rồi rước Cụ từ quê Hà Tĩnh ra chơi. Có một viên Thị vệ thấy thế, bèn bịa đặt mật tâu về Kinh là cụ Trứ đang tìm cách thu phục nhân tâm, có ý mưu đồ làm phản. Nhà vua vội vàng cho triệu cụ vào Kinh để tìm cớ trừ “hậu hoạ”. Tuy nhiên, khi tỉnh táo lại suy xét, triều đình cũng hiểu được rằng đó chỉ là những lời đồn xằng bậy,xấu xa. Tương truyền, lúc cụ đã vượt hàng ngàn dặm đường đất về Kinh, vua Tự Đức vời Cụ vào bệ kiến để Cụ giãi bày tâm sự cho rõ thực hư. Nhân nhà vua hỏi Cụ: “Ở hạt Tiền Hải và Kim Sơn dân tình làm ăn thế nào?”, Cụ mới tâu rằng:

                - Thưa bệ hạ, dân hai huyện ấy làm ăn rất là vui vẻ, ngày thì chăm lo cày cấy, tối về đập lúa ca hát, thật đúng là cảnh “Muôn dân trăm họ, thái bình âu ca”. Họ thường đặt ra những câu hát đố rất là thú vị để hát đối đáp với nhau.

Nhà vua hỏi:

- Như những câu gì, có thể đọc cho trẫm nghe được không?

- Tâu Bệ hạ, chẳng hạn như câu này:

Đem thân cho thế gian ngồi,

Rồi ra lại nói những lời bất trung.

Vua hỏi là cái gì, cụ Trứ đáp:

- Tâu Bệ hạ, họ bảo đấy là cái phản.

Tự Đức lại hỏi:

- Còn câu gì hay nữa không?

- Tâu Bệ hạ: còn câu này cũng hay lắm:

Ngay lòng ở với nước nhà,

Người dù không biết trời đà biết cho.

Vua hỏi: Là cái gì?

- Tâu Bệ hạ, họ giảng đấy là cái máng nước.

Tự Đức biết ý Cụ ám chỉ việc Cụ bị vu oan và trách triều đình không biết xét việc minh bạch có trước có sau, nên tìm lời an ủi cụ rồi cho cụ trở về nguyên quán ở Hà Tĩnh.

  1. CHE MIỆNG THẾ GIAN

Cuối cùng Cụ Trứ cũng được về trí sĩ! Trước khi từ giã kinh thành Huế để về với quê Hồng Lam non xanh nước biếc, Cụ ngất ngưởng ngồi trên cỗ xe bò cái kéo, cổ bò lại đeo nhạc ngựa, long nhong đến từng nhà từ giã những người quen.

Khi đến nhà Hà Tôn Quyền - vị đại thần trước kia đã từng dèm pha gây cho ông nhiều bước thăng trầm lận đận, Nguyễn Công Trứ lấy một cái mo cau, chép một bài thơ buộc vào phía sau đuôi bò, che... lại. Thiên hạ xúm lại xem, rúc rích cười khiến họ Hà thêm tò mò. Nguyễn Công Trứ gạt mọi người và úp sấp mo cau lại. Hà Tôn Quyền đòi coi cho kì được, sấn lại, lật ngửa tấm mo cau lên. Hoá ra trên mo cau có bài thơ:

Xuống ngựa lên xe lọ tưởng nhàn

Lợm mùi giáng chức với thăng quan

Điền viên dạo chiếc xe bò... cái

Sẵn tấm mo che miệng thế gian.

Hà Tôn Quyền đỏ ngay mặt, hiểu ra là Nguyễn Công Trứ xỏ mình, “miệng thế gian” hay dèm pha có khác chi miệng họ Hà.

Về hưu nhưng cụ Thượng Trứ không ở lại làng Uy Viễn, mà vào ở một cạnh ngôi chùa trên núi Cảm Sơn, thuộc xã Đại Nại gần tỉnh lị Hà Tĩnh bây giờ, và thường cưỡi bò vàng đạc ngựa đi chơi đây đó. Người đời truyền tụng, để diễu và răn dạy những kẻ hay đàm tiếu những chuyện thị phi ganh ghét, cụ viết thơ lên chiếc mo cau rồi buộc sau đít bò. Có người còn nhớ hai câu sau:

Miệng thế khó đem b­ưng nó lại.

Lòng mình chưa dễ bóc ai coi.

Thiên hạ thấy vậy lại đua nhau bàn tán, kẻ bảo Cụ chán đời, người bảo Cụ ngạo thế; Cụ chỉ ngất ngưởng cười, nghêu ngao thơ, bất tận chơi mà chẳng bận lòng.­

  1. GIỄU LỐI VĂN SÁO RỖNG

                Một lần Cụ đang cưỡi bò rong ruổi chơi theo con đường thiên lí thì gặp một toán các thầy cử tân khoa đang trên đường trẩy kinh thi hội, cười nói rôm rả, ai cũng đua nhau khoe tài học tầm chương trích cú của mình. Cụ cưỡi bò đi cùng các thầy một quãng dài, nghe các thầy nói chán rồi liền cất tiếng bắt chuyện làm quen, nói:

                - Lão nghe các thầy từ nãy đến giờ trổ tài văn thơ thật sướng lỗ tai. Tình cờ hôm nọ lão có nghe lỏm đ­ược một đoạn văn có lẽ là của một danh sĩ, bây giờ xin đọc các thầy nghe rồi nhờ các thầy luận giải giùm cho lão với nhé.

Các thầy cử đang muốn trổ tài ta đây, thấy có dịp liền tranh nhau nói:

                - Được thôi, cụ cứ đọc đi, có gì chúng tôi sẽ nói cho cụ biết.

                Nguyễn Công Trứ ngồi trên lưng bò tủm mỉm c­ười rồi đọc một mạch:

                "Sông Nhĩ Hà sâu ba mươi sáu thước, chim ăn chim béo, cá không ăn, cá bay về núi Hồng Sơn. Nhớ thuở x­a vua Thần Nông giá sắt, vua Đế Thuấn canh vân. Cùng quăng, cùng quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại bò vàng chi liếm lá!...".

Các thầy cử nghe xong, không ai bảo ai đều khen là văn kêu ý lạ; nhưng bình giải cho rõ ràng cụ thể thì các thầy đều tịt mít. Đọc xong, Cụ Trứ xin phép dừng lại cho bò ăn cỏ và ôm bụng cười, để các thầy suốt quãng đường cứ bàn luận mãi mà vẫn không ai hiểu nghĩa ý đoạn văn là ra sao, xuất xứ từ đâu ra mà chưa ai từng được nghe tới…

  1. PHONG LƯU ĐÁO LÃO THẾ GIAN VÔ

                Nghỉ hưu rồi, về quê, Cụ Trứ nhờ nhân dân giúp đỡ, dựng một ngôi nhà lá rất nhỏ cạnh chùa Cảm Sơn dưới chân núi Đại Nài, cách lị sở tỉnh Hà Tĩnh chừng vài dặm. Thường cưỡi bò vàng đạc ngựa cùng cô vợ trẻ (hầu non) vừa mới cưới, cô này cũng là ca kĩ, đi ngao du và ca hát. Có lần ông gọi cả gánh ca trù đến hát ngay giữa sân chùa. Vị sư trụ trì tại đây sợ quá, bèn tìm đến nhờ quan Bố chính Hà Tĩnh lúc đó là Hoàng Nho Nhã can thiệp giúp. Hoàng bèn đích thân đến xem, từ xa nghe lời ca trong tiếng đàn réo rắt:

                …Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng,

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

                Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi,

                Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi gì,

                Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!

                Quan Bố chánh cũng say sưa với thơ hay, đào đẹp, giọng ngọt, đàn êm, quay lại bảo với nhà sư trụ trì:

                - Thôi đừng can thiệp vào thú vui của Cụ, mà có muốn ta cũng không can thiệp được đâu!

                Nghe kể, cuối buổi, Hoàng Nho Nhã làm tặng cụ Trứ đôi câu đối rất hay:

                Sự nghiệp kinh nhân thiên hạ hữu,

                Phong lưu đáo lão thế gian vô!

                Nghĩa là kẻ làm nên sự ngiệp khiến người đời khiếp sợ trong thiên hạ vẫn còn, chứ người đến già vẫn phong lưu (như cụ) thì thế gian không có!

  1. CÀNG GIÀ CÀNG DẺO CÀNG DAI!

                Trong thời gian trú tại Núi Nài, hát xướng, ngao du cùng bạn bè, khi tuổi đã ngoại thất tuần, Nguyễn Công Trứ gặp một cô gái mười bảy tuổi. Như có duyên trời định, hai người - một lão già tóc bạc và một thiếu nữ má hồng - đã đem lòng yêu nhau và gắn bó. Cụ Thượng Trứ hỏi nàng làm thiếp, và nàng đã đồng ý làm lễ cưới. Trong đêm hợp hôn, Cụ cùng nàng bày rượu, đập trống hát ca trù và sáng tác một bài hát nói ngay lập tức được truyền tụng khắp vùng: và cho đến tận ngày nay không “tay chơi già” nào là không biết, thuộc một đôi câu.

Trẻ tạo hoá ngẩn ngơ lắm việc,

Già nguyệt ông cắc cớ trêu nhau.

Kìa kia người mái tuyết đã phau phau,

Run rẩy kẻ đào tơ còn mảnh khảnh.

Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,

Nhất toạ lê hoa áp hải đường…

Và có lẽ cho đến tận ngày nay không “tay chơi già” nào là không biết, không thuộc hai câu sau đây:

Tân nhân nhược vấn lang niên kỉ,

Ngũ thập niên tiền nhị thập tam!

(Nếu thiếp mới hỏi chàng bao tuổi,

Năm mươi năm trước hai mươi ba!)

Và Cụ kết thúc khúc hát bằng một tuyên bố… xanh rờn:

Xưa nay mấy kẻ đa tình,

Lão Trần là một với mình là hai.

Càng già càng dẻo càng dai!

  1. LÀM CÂY THÔNG ĐỨNG GIỮA TRỜI

                Cụ Thượng Uy Viễn Nguyễn Công Trứ ngang tàng, coi đời như một cuộc chơi thú vị theo ý ngông của mình cho đến tận lúc chết, và cả chết Cụ cũng ngông như vừa nói ở trên. Thế nhưng, cái ngông, cái ngạo của Cụ không dừng lại ở kiếp này, mà còn sang cả kiếp sau nữa.

Tương truyền, vào phút lâm chung, cụ Trứ dặn con cháu trước mộ mình chỉ trồng một cây thông xanh mà thôi. Và bài thơ Cụ để lại sau đây cũng có thể coi là lời di chúc của Cụ với đời: kiếp người, dù có tài, có sang, có chơi đến như Cụ vẫn có những lúc buồn tênh, vẫn đầy những nhộn nhạo, khóc cười; và Cụ hẹn một cuộc chơi khác:

Ngồi buồn mà trách ông xanh,

Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.

Kiếp sau xin chớ làm người,

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo!

                Nhưng dù thế, Cụ vẫn không muốn mình đơn độc, vẫn muốn tìm bạn, để có người tri kỉ, cùng chơi. Cụ gửi lại lời mời đầy thách thức:

Giữa trời vách đá cheo leo,

Ai mà chịu rét thì trèo với thông!

Nhân vật chết, hết giai thoại!

Nhưng vẫn còn một điều cuối cùng chúng tôi muốn chép lại, là lời băn khoăn buồn của những hậu duệ trông coi và hương khói nhà thờ Cụ Trứ: họ đã nhiều lần trồng thông xanh bên mộ Cụ đúng theo di chúc, nhưng thông không sống được - quê Cụ toàn đất cát. Đất nghèo.

                Đất này cây khó sống, nhưng người vẫn phải sống. Mà lại sống kiêu sa, ngang tàng.

Nghịch lí chăng?

                                                                                                                                Giang Đình (sưu tầm)

Một cửa điện tử
Văn bản điện tử
Bình chọn

Bạn quan tâm mục gì nhất trong Website của chúng tôi?

Văn bản mới
Xem thêm
Thống kê truy cập

Lượt truy cập: 2126617

Trực tuyến: 142

Hôm nay: 1900