KHÁI QUÁT DI TÍCH NHÀ THỜ VŨ VĂN KẾ
Di tích có tên gọi là nhà thờ Vũ Văn Kế, vì di tích thờ nhân vật Vũ Văn Kế - thứ mộ của trại Tuần Lễ và là ông tổ họ Vũ ở thôn Tuần Lễ (hiện thuộc địa bàn xóm 8) xã Như Hòa, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Ngoài tên gọi trên ra thì di tích còn có tên gọi khác là Từ đường họ Vũ hay Nhà thờ họ Vũ thôn Tuần Lễ.
Về thời điểm xây dựng: Năm 1894 cụ Vũ Văn Kế là người trực tiếp đứng ra lo liệu xây dựng Từ đường họ Vũ. Cụ cho người về làng Phương Để bốc bát nhang gia tiên về đây thờ tự. Sau khi cụ Vũ Văn Kế mất, con cháu lập nghiệp ở trại Tuần Lễ đã tôn cụ thành cụ tổ họ, người đầu tiên của dòng họ Vũ đến đây lập nghiệp.
Nhà thờ Vũ Văn Kế là nơi thờ cúng tưởng niệm thứ mộ Vũ Văn Kế và dòng họ Vũ ở thôn Tuần Lễ, xã Như Hòa. Cụ Vũ Văn Kế (1815-1899) quê ở thôn Phương Để, tổng Phương Để, huyện Nam Chân, phủ Thiên Trường, nay là huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định là thứ mộ có công lập nên trại Tuần Lễ[1].
Nhà thờ Vũ Văn Kế có kiến trúc theo kiểu tiền nhất hậu đinh, quay hướng nam. Tòa Tiền đường xây dựng năm 1939, 3 gian, mái làm theo kiểu cổ đẳng, 2 tầng, trên gắn ngói nam, trong xây cuốn, vì kèo kiểu ván mê, chất liệu làm từ hồ mật. Tòa Chính tẩm gồm 3 gian 2 dĩ, gian chính giữa, phía trên treo bức đại tự nhấn chìm 3 chữ Hán: Tự Hồ Tiên, nghĩa là Thờ tiên tổ,. Phía dưới bức đại tự là nhang án thờ công đồng. Gian bên phải đặt bát nhang, bài vị thờ ngành trưởng. Gian bên trái đặt bát nhang, bài vị thờ ngành thứ. Đầu đốc bên phải đặt khám thờ táo quân. Chuôi vồ là nơi thờ tự chính, đặt khám thờ, bài vị thờ Vũ Văn Kế.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp từ đường họ Vũ là nơi bí mật nuôi dấu cán bộ, bộ đội, là nơi họp chi ủy, kết nạp đảng viên, bàn nội dung phá tề trừ gian, phục vụ bộ đội chủ lực đánh đồn bốt. Trong kháng chiến chống Mỹ, Từ đường họ Vũ được hợp tác xã chọn làm thư viện, nơi dạy bổ túc văn hóa cho nhân dân địa phương.
Hiện tại, thờ Vũ Văn Kế còn lưu giữ được một số hiện vật quý sau: Bát hương, Long ngai, bài vị, Câu đối, Đại tự, Bảng chúc, Khám thờ…
Tại di tích hàng năm diễn ra các ngày lễ mang đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó ngày kỵ cụ Vũ Văn Kế 23/8 (âm lịch) là ngày lễ lớn nhất trong năm.
Xuất phát từ những giá trị của di tích, nguyện vọng của Ban cán sự gia tộc, của chính quyền và nhân dân địa phương, năm 2024, UBND tỉnh Ninh Bình đã ra quyết định xếp hạng nhà thờ Vũ Văn Kế là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
[1] Chiêu mộ trại Tuần Lễ là cụ Lê Văn Uẩn, người xã Phúc Nhạc, tổng An Vân, huyện Yên Mô. Cùng với chiêu mộ Lê Văn Uẩn, phó chiêu mộ Nguyễn Hữu Lượng quê ở Bồng Hải, xã Khánh Thiện (Yên Khánh), còn có 17 nguyên mộ, 7 thứ mộ và tân mộ trong đó có cụ Vũ Văn Kế.
KHÁI QUÁT DI TÍCH NHÀ THỜ HỌ PHẠM TRỌNG BẢO
Di tích có tên gọi là nhà thờ Phạm Trọng Bảo, vì được con cháu dòng họ Phạm ở xóm 5, xã Lai Thành xây dựng để thờ cúng, tưởng niệm cụ Phạm Trọng Bảo, là người khởi tổ dòng họ Phạm tại vùng đất này. Hiện di tích thuộc địa phận xóm 5 xã Lai Thành huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình.
Căn cứ vào khoảng thời gian cụ Phạm Trọng Bảo đến vùng đất Lai Thành (khoảng đầu thế kỷ 19); căn cứ sắc phong của bà Tổ cô thờ tại đây được cấp năm 1913, có thể khẳng định nhà thờ đã được xây dựng từ trước đó và thờ bà Tổ cô. Sau khi cụ Phạm Trọng Bảo mất, con cháu xây lại nhà thờ và thờ cụ cùng với Tổ cô. Trải qua hàng trăm năm, do sự tác động của thiên nhiên, con người, sự tàn phá của chiến tranh, di tích bị xuống cấp, nhưng đã được kịp thời trùng tu, tôn tạo vào các năm 1928 và năm 1999.
Di tích là nơi thờ cụ tổ Phạm Trọng Bảo (quê làng Côi Trì, Yên Nhân- Yên Mô) người có công khai sinh dòng họ Phạm tại xóm 5, xã Lai Thành, góp công cùng các dòng họ khác khẩn hoang, lập ấp Tuy Lai (năm 1829), cụ Phạm Khắc Khoan (con trai thứ của cụ Phạm Trọng Bảo). Di tích còn là nơi thờ bà Tổ cô Ngọc Cốt Hoa Dung Thánh Lương và thờ vong linh trong ngành trưởng của dòng họ.
Nhà thờ Phạm Trọng Bảo được xây dựng với kiến trúc chữ Nhất (-), theo lối nhà ở truyền thống, giản dị. Ngôi nhà gồm 3 gian, tường hồi bít đốc. Hai bên đốc hiên là hai cột đồng trụ, trên cột khắc câu đối bằng chữ Hán, hai đầu cột đắp bông sen. Mái nhà lợp ngói vẩy. Hệ thống vì kèo kiểu giá chiêng, bằng gỗ. Các cấu kiện hoành, rui, mè đều được làm bằng gỗ. Trên mái hiên nhà thờ đắp nổi hai con rồng chầu cuốn thư, trong cuốn thư đắp ba chữ Hán “Đường Phạm tộc” (Từ đường họ Phạm).
Trong kháng chiến chống Pháp: Nhà thờ Phạm Trọng Bảo là nơi ẩn náu, hoạt động bí mật của ông Nghiêm Văn Đức là cán bộ trung đội thuộc đơn vị 109 hoạt động vùng Nga Điền - Nga Sơn, Lai Thành - Kim Sơn, ông Nguyễn Văn Yêng là cán bộ cách mạng hoạt động Kim Sơn - Lai Thành. Trong kháng chiến chống Mỹ, nhất là thời gian chiến tranh phá hoại, nhà thờ là nơi cất giấu tạm thời các vũ khí của bộ đội huyện.
Di tích nhà thờ Phạm Trọng Bảo còn lưu giữ được một số hiện vật và đồ thờ tự quý như: 03 sắc phong của các đời vua triều Nguyễn, phong cho Ngọc Cốt Hoa Dung Thánh Lương (1913, 1917, 1924), 01 ngai thờ, bằng gỗ, thời Nguyễn, 6 bát hương, bằng sứ, thời Nguyễn…
Hàng năm, tại di tích diễn ra các hoạt động như (tính theo âm lịch): Lễ Kỳ phúc ngày mùng 7 tháng Giêng, Giỗ tổ cô Ngọc Cốt Hoa Dung Thánh Lương: ngày 16 tháng 3, Tiết Thanh minh (tổ chức vào ngày đầu tiên của tiết), Giỗ cụ Phạm Khắc Khoan ngày 20 tháng 4, Giỗ cụ Phạm Trọng Tuấn (con trai cả cụ Phạm Trọng Bảo) Ngày mùng 8 tháng 6, Giỗ cụ Phạm Trọng Bảo: ngày 17 tháng 7…
Nhà thờ Phạm Trọng Bảo được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2011.
KHÁI QUÁT DI TÍCH NHÀ THỜ HỌ BÙI PHÚC
Di tích có tên gọi là nhà thờ họ Bùi Phúc, vì di tích được con cháu xây dựng để thờ cúng, tưởng niệm các bậc tiền nhân dòng họ Bùi Phúc. Hiện nay, nhà thờ họ Bùi Phúc thuộc địa phận xóm 12, xã Lai Thành huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Theo các cụ cao nhiên trong dòng họ, nhà thờ được xây dựng từ giữa thế kỷ XIX,. Nhà thờ ban đầu được xây dựng đơn sơ, tường đắp đất, mái lợp bổi. Trải qua nhiều biến động của xã hội, sự khắc nghiệt của thời tiết, làm nhà thờ bị xuống cấp. Năm 1972, con cháu trong dòng họ tiến hành xây dựng lại Nhà thờ, tường xây gạch, mái cuốn vòm lợp ngói nam. Năm 2001, tiến hành mở rộng Tiền đường. Năm 2016, tiến hành đại tu nhà thờ, xây dựng kiến thiết khang trang như hiện nay.
Về kiến trúc: Nhà thờ họ Bùi Phúc được xây dựng theo kiểu tiền Nhất hậu Đinh, gồm ba tòa: Tiền đường, Trung đường và Hậu cung, di tích tuy mới được xây dựng lại nhưng vẫn giữ được kiểu dáng kiến trúc truyền thống.
Di tích là nơi thờ cúng, tưởng niệm cụ thuỷ tổ và con cháu trong dòng họ Bùi Phúc. Cụ thủy tổ họ Bùi đại tộc là Bùi Chí Thanh (còn gọi là Bùi Chí Hòa), tự là Chân Không, thụy là Ôn Nhã, nguyên quán tại thôn Phương Lũ, xã Kim Lũ, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông sinh năm 1432 thời Hậu Lê, là người thông minh tài hoa, có chí lớn. Ông là người có công trong việc khai hoang lập ấp, thành lập nên vùng đất Trà Lũ vào thế kỷ XV, nay là các xã Xuân Bắc, Xuân Trung, Xuân Phương và một phần xã Xuân Vinh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đầu thế kỷ XIX, làng Trà Lũ là căn cứ của cuộc khởi nghĩa nông dân Phan Bá Vành. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, nhiều người dân Trà Lũ đã theo lời kêu gọi của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ sang khai phá miền đất bồi ven biển, tiếp nối truyền thống cha ông khai hoang lập ấp, thành lập nên huyện Kim Sơn, trở thành tổ tiên của nhiều dòng họ ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, trong đó có họ Bùi Phúc, xã Lai Thành. Ngoài cụ Thủy tổ Bùi Chí Thanh, nhà thờ còn là nơi con cháu trong dòng họ thờ cúng, tưởng niệm các bậc tiền nhân của dòng họ, thờ gia tiên ngành trưởng, bà cô ông mãnh của dòng họ.
Trải qua hàng trăm năm xây dựng và tu bổ, di tích còn giữ được nhiều hiện vật, đồ thờ tự quý như sắc phong, bát hương, khám thờ, kiệu song hành…
Hàng năm, tại di tích diễn ra các hoạt động chính sau (tính theo âm lịch): Lễ tế đầu xuân (ngày mùng 4 Tết Nguyên đán); Lễ kỵ cụ Thủy tổ Bùi Chí Thanh (ngày mùng 6 và mùng 7 tháng 3). Từ lâu, di tích đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của con cháu, góp phần giáo dục các thế hệ sau về truyền thống, nền nếp, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dòng họ.
Nhà thờ họ Bùi Phúc xóm 12 xã Lai Thành được Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình công nhận là Di tích Lịch sử cấp tỉnh năm 2019.
KHÁI QUÁT DI TÍCH MIẾU VÀ CHÙA LẠC THIỆN
Di tích có tên gọi là miếu và chùa Lạc Thiện, vì miếu và chùa được xây dựng ở địa phận làng Lạc Thiện xưa (nay là xóm 16, xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn). Chùa Lạc Thiện tên chữ là: Vĩnh Tường tự.
Về thời điểm xây dựng: Tương truyền, khi Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ đến đây khai hoang, lấn biển, ông đã ở vùng đất Lạc Thiện ngày nay. Theo nội dung văn bia của miếu: “Năm Kỷ Sửu niên hiệu Minh Mệnh (1829), ấp ta cậy nhờ ơn của quan Doanh điền Nguyễn tướng công chiêu dân lập ấp cùng các vị chiêu, nguyên, thứ mộ xây dựng nên miếu vũ để phụng thờ”. Như vậy, miếu Lạc Thiện là do Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ, chiêu mộ Vũ Khắc Minh và các vị nguyên, thứ mộ, tòng mộ xây dựng, ban đầu là một miếu nhỏ, làm nơi thờ thần Cao Sơn, tôn là thành hoàng làng.
Cũng theo câu đối còn lưu giữ ở Trung đường:
Sáng lập sùng từ Minh Mệnh Ất Mùi xuân kiến (1835)
Trùng tu miếu vũ Bảo Đại Mậu Dần đông Tý (1938)
Chùa Lạc Thiện được xây dựng năm 1928 tại vị trí Ủy ban nhân dân xã hiện nay (cách di tích khoảng 500m về phía đông). Trong thời kỳ kháng chiến, Ủy ban hành chính xã mượn chùa Lạc Thiện làm trụ sở. Năm 1978, nhân dân dựng lại chùa trên đất miếu làng tại vị trí hiện nay.
Miếu Lạc Thiện là nơi thờ cúng, tưởng niệm thần Cao Sơn đại vương, vị tướng thời Hùng Vương, có công phù giúp nhân dân tăng gia sản xuất, mở rộng đất đai, xây dựng cuộc sống yên ổn thanh bình. Đồng thời, di tích là nơi thờ cúng, tưởng niệm chiêu mộ Vũ Khắc Minh, người có công đầu giúp Nguyễn Công Trứ khai hoang lấn biển, lập ấp Lạc Thiện và 26 các nguyên mộ, thứ mộ, tòng mộ được Vũ Khắc Minh tuyển chọn, phân nhiệm thực hiện khai hoang lập ấp. Chùa Lạc Thiện thờ Phật, là nơi sinh hoạt văn hoá tâm linh của nhân dân Quang Thiện và các vùng lân cận từ xưa đến nay.
Trong kháng chiến chống Pháp: Miếu Lạc Thiện là nơi diễn ra nhiều hội nghị, nhiều lớp tập huấn do huyện và xã tổ chức, đây cũng là địa điểm thanh niên địa phương đến tập võ để chuẩn bị lực lượng chiến đấu với địch. Di tích là nơi cất giữ lương thực, vũ khí, một phân đội được bố trí hoạt động tại miếu có nhiệm vụ nấu cơm tiếp tế cho bộ đội.
Trong kháng chiến chống Mỹ: Chùa Lạc Thiện (chùa cũ) là cơ sở phục vụ các hoạt động công cộng của làng xã như trụ sở của Ủy ban hành chính xã. Miếu Lạc Thiện là nơi cửa hàng bách hoá huyện Kim Sơn mượn làm nơi cất giấu hàng hoá, phục vụ đời sống của nhân dân. Các khu nhà khách (giải vũ) được mượn làm hội trường và nhà trẻ của Hợp tác xã nông nghiệp Rạng Đông. Miếu và chùa Lạc Thiện là nơi đưa tiễn hàng trăm thanh niên lên đường tòng quân giết giặc, là cơ sở tập luyện của du kích tập trung xã.
PHẦN V: SINH HOẠT VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH
Quang Thiện là một xã giàu truyền thống văn hóa và cách mạng, tại đây còn lưu giữ được nhiều nét sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc, phản ánh đậm nét đời sống tinh thần của nhân dân. Hàng năm, tại di tích diễn ra các hoạt động văn hóa, lễ hội chính như sau (tính theo Âm lịch):
1. Lễ Thượng nguyên (Rằm tháng Giêng): Đây là lễ cầu năm mới mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, cầu quốc thái dân an. Lễ diễn ra trong 2 ngày, có mời các đoàn tế của xóm lân cận tham gia.
Ngày 14 tháng Giêng: buổi sáng nhân dân dọn dẹp khuôn viên di tích, lau rửa các đồ thờ tự. Buổi chiều tổ chức tế cáo yết. Một số đoàn tế của xóm lân cận tổ chức tế lễ.
Ngày 15 là chính lễ. Buổi sáng, các đoàn tiếp tục dâng hương và tế lễ. Buổi trưa, tổ chức thụ lộc tại di tích. Buổi chiều nhân dân tổ chức tế tạ.
Lễ Thượng nguyên kết hợp tế yến lão, là để dân làng mừng các cụ thọ từ 70 tuổi trở lên. Quan niệm của người xưa, tuổi thọ là một trong ba điều hạnh phúc của con người. Nếu “lộc” là công danh chức tước, “phúc” là con cháu đề huề thì “thọ” chính là ước muốn sống lâu được mọi người quý trọng. Mặc dù qua thời gian với bao biến đổi song nghi thức “yến lão” vẫn được nhân dân duy trì và phát huy.
Nghi thức tế yến lão tổ chức tại di tích là một hình thức sinh hoạt văn hóa giàu truyền thống, bày tỏ sự kính trọng các bậc cao niên tôn sùng đạo hiếu, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
2 Ngày kỵ sư tổ Thích Thanh Luật: ngày 27 tháng 2, nghi thức chủ yếu là dâng hương, tế lễ.
3. Ngày sinh đức thành hoàng Cao Sơn đại vương: 16 tháng 3. Nhân dân tổ chức tế lễ trong 2 ngày (ngày 15 và 16 tháng 3). Quy trình tế diễn ra giống như lễ Thượng nguyên.
Song song với những nghi thức tế lễ nhằm tưởng nhớ những vị thần, còn tổ chức các trò chơi dân gian với mục đích giao lưu, chúc phúc như tổ chức hát chèo, ca nhạc vào buổi tối. Ban ngày thì tổ chức các trò: chọi gà, cờ tướng, chơi tổ tôm điếm, kéo co, đấu vật...
4. Ngày Phật đản: ngày 8 tháng 4, nghi thức chủ yếu là dâng hương, tế lễ.
5. Ngày kỵ cụ chiêu mộ Vũ Khắc Minh: ngày 8 tháng 5. Dân làng và con cháu trong dòng họ tổ chức tế lễ tại di tích. Thời gian diễn ra trong 2 ngày (ngày 7 và ngày 8). Quy trình tế lễ diễn ra giống lễ Thượng nguyên.
6. Ngày kỵ đức thành hoàng Cao Sơn: ngày 12 tháng 10. Thời gian tổ chức trong 2 ngày (ngày 11 và 12 tháng 10).
Ngày 11: buổi sáng nhân dân dọn dẹp khuôn viên di tích, lau rửa các đồ thờ tự. Buổi chiều tế cáo yết, buổi tối có giao lưu sinh hoạt văn nghệ giữa các xóm lân cận.
Ngày 12: là ngày chính lễ. Buổi sáng, các đoàn tiếp tục dâng hương và tế lễ, tưởng nhớ công lao phù giúp nhân dân tăng gia sản xuất, mở rộng đất đai, xây dựng cuộc sống yên ổn thanh bình. Buổi trưa, tổ chức thụ lộc tại di tích. Buổi chiều, nhân dân tổ chức tế tạ.
7. Ngày kỵ Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ: ngày 14 tháng 11. Vào dịp này hàng năm, nhân dân trong xóm thường kết hợp lễ Thường tân (lễ cúng cơm mới).
8. Ngày kỵ ni trưởng Thích Đàm Tùy: ngày 12 tháng 12, nghi thức chủ yếu là dâng hương, tế lễ.
Ngoài các lễ chính như trên, vào ngày rằm, mùng một hàng tháng, các lễ tiết trong năm, nhân dân quanh vùng đến thắp hương cầu may. Trong xóm thành lập 2 đội tế, đội nam quan và đội nữ quan, phục vụ trong các dịp tế lễ và tham gia tế ở các xóm lân cận.
PHẦN VI: KHẢO TẢ DI TÍCH.
1. Tổng thể: Miếu và chùa Lạc Thiện nằm trong một không gian văn hoá làng quê thanh bình, các kiến trúc được xây dựng hài hòa, tạo cảnh quan đẹp và thâm nghiêm. Di tích nằm cạnh đền thờ Nguyễn Công Trứ, phía trước là đường quốc lộ 10 chạy qua, xa hơn là sông Ân, sông Đáy được coi như tiền án của di tích. Phía Tây di tích, cách khoảng 3km là Nhà thờ đá Phát Diệm.
Di tích tọa lạc trên mảnh đất rộng có tổng diện tích 3.963 m2 (diện tích chùa 2013 m2 và diện tích miếu 1950 m2 ), phía Đông và phía Nam giáp sông Lạc Thiện (là một nhánh của sông Ân); phía Bắc và phía Tây giáp đường xóm.
Hướng của di tích được xây dựng quay hướng Đông Nam, nhìn ra sông Ân và sông Đáy. Các ban thờ trong di tích cũng quay theo hướng này.
Phía trước miếu, cách một khoảng sân rộng có bức bình phong và hòn non bộ. Trên bức bình phong trang trí tứ linh, tứ quý, ở giữa là chữ Thọ. Hai bên là hai cột đồng trụ, trên đắp đôi nghê chầu.
Trên mặt bằng tổng thể, miếu và chùa Lạc Thiện gồm các hạng mục sau: Nghi môn chính (1), nghi môn phụ (11), vườn tháp (2), sân, vườn (3), lầu Phật Bà Quan Âm (3.1), nhà đạo tràng (nhà tụng kinh) (4), phủ mẫu (5), nhà tổ (8), nhà khách (9), lầu thờ bà Làng (10), và công trình kiến trúc trung tâm miếu (7) và chùa (6).
|
1 |
2 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
3 |
3 |
11 |
3.1.1.1 |
10 |
2. Khảo tả
2.1. Nghi môn:
Nghi môn chính: quay hướng nam, xây dựng phía trước, bên phải miếu và chùa, theo kiểu chồng diêm, 3 tầng. Tầng thứ nhất với 3 cửa ra vào có hệ thống cánh cổng, xây cuốn vòm, tầng thứ hai bên trong có đặt tượng Quan Âm Bồ Tát, tầng thứ ba bên trong có treo quả chuông đồng. Trên các cột cổng, phía trong và ngoài cổng đều nhấn các câu đối chữ Hán, nội dung ca ngợi sự uy nghiêm của di tích và tâm thế cần có của con người khi đến nơi chùa, miếu. Trên mái đao, các đầu đao được uốn cong và có trang trí họa tiết hoa văn sóng biển, tản mây, diềm mái đao hình lá đề. Trên nóc mái đao có đắp họa tiết hoa văn lá lật.
Nghi môn phụ: quay hướng bắc, với một lối ra vào, có hệ thống cánh cổng bằng sắt, được xây đơn giản, nằm phía trước bên trái miếu.
Di tích có hệ thống tường bao quanh cao 1,5m tạo thành một khuôn viên khép kín bảo vệ công trình.
2.2. Vườn tháp: được xây dựng trước nhà đạo tràng và phủ, vườn tháp chùa Lạc Thiện là nơi để nhục thân (chôn cả người, không bốc hài cốt) của các vị tổ sư có công xây dựng, bảo vệ chùa. Hiện nay, trong khu vườn tháp có xây ba ngôi tháp nhưng mới có một tháp đặt nhục thân của ni trưởng Thích Đàm Tùy.
2.3. Sân, vườn:
Sân: có diện tích rộng, thuận tiện cho địa phương tổ chức các hoạt động văn hóa, các ngày tế lễ, ngày hội hàng năm.
Vườn: trong sân có trang trí các vườn hoa, cây cảnh được xây quây bằng gạch cao 40cm, tạo cảm giác thoải mái và gần gũi cho nhân dân khi đến với di tích.
Trong khu vườn hoa có xây lầu Phật Bà Quan Âm (hình lục giác), trong có tượng Quan Âm, xây làm 3 tầng theo kiến trúc hình tháp, mỗi tầng gồm 6 mái, đầu mái đao được uốn cong và trang trí hoa văn sóng biển, các mái đều có diềm mái nhấn chữ Thọ. 6 chân cột là 6 con nghê trong tư thế ngồi chầu, hướng về các phía khác nhau.
Di tích nằm trên mảnh đất cao ráo, trong khuôn viên có nhiều cây cổ thụ xanh tốt như: sanh, lộc vừng, đa, nhãn… Đây cũng là những cây cối thường được trồng ở đình, chùa, đền, miếu vừa tạo bóng mát cho di tích, vừa có ý nghĩa tâm linh nhất định.
2.4. Nhà đạo tràng: được xây dựng năm 2016, nơi các phật tử tụng kinh niệm Phật, nhà hình chữ Nhất ( ) gồm 8 gian chạy dọc, chiều dài 15,2m, chiểu rộng 4,5m, được xây dựng đơn giản, mái lợp tôn, có hai cửa ra vào, cửa quay hướng nam, nền lát gạch hoa, nền nhà cao hơn nền sân 0,4m. Nhà đạo tràng có bài trí ban thờ với các tượng thờ: Tượng Tam thế, 7 vị dược sư, Thích Ca sơ sinh, Đức Địa Tạng, ban thờ quay hướng Nam, được xây làm 4 cấp bài trí 12 pho tượng.
2.5. Công trình kiến trúc phủ:
Phủ được xây dựng năm 2011, nằm phía bên phải chùa. Công trình có mặt bằng kiến trúc chữ Nhất ( ) gồm 2 tòa: Tiền đường và hậu cung, mỗi tòa đều năm gian. Tiền đường chiều dài 10,7m, chiều rộng 4,2m. Hậu cung chiểu dài 10,7m, chiểu rộng 3,9m. Cũng như miếu và chùa, phủ được xây dựng quay hướng đông nam. Các ban thờ trong phủ đều quay theo hướng này.
Tiền đường là nơi đặt ban thờ Ngũ vị tôn ông. Hậu cung là nơi đặt ban thờ: Tam tòa Thánh Mẫu, Chúa Bản đền, Chúa Sơn trang, Mẫu Âu Cơ, Bà Chúa Kho, thần Bản mệnh. Với tính chất của phủ là thờ Mẫu, hệ thống các ban thờ Mẫu khác nhau nên tại phủ còn có rất nhiều bát hương bản mệnh. Đây là bát hương thờ thần bản mệnh của những người muốn nhờ cửa Mẫu.
Kết cấu vì kèo kiểu giá chiêng kẻ suốt; hệ thống hoành, rui, mè bằng gỗ tứ thiết. Vật liệu xây dựng kết hợp hài hòa cả chất liệu cổ truyền và hiện đại, tạo cho ngôi nhà vừa đảm bảo tính cổ truyền, vừa vững chãi, kiên cố. Tường được xây dựng bằng gạch trát vôi vữa, mái lợp ngói vẩy theo kiến trúc nhà ở truyền thống.
Tiền đường có 3 cửa ra vào, kích thước các cửa bằng nhau cao 2,17m, rộng 1,2m, mỗi cửa 2 cánh, mỗi cánh rộng 0,6m. Cửa được thiết kế theo kiểu bức bàn, bằng gỗ, sơn nâu. Tiền đường có hai cửa sổ nhỏ vừa để trang trí vừa lấy ánh sáng vào trong phủ.
Hậu cung có 5 cửa ra vào, các cửa được uốn vòm, không có hệ thống cánh cửa. Phần giáp với tiền đường, phía trước ba cửa giữa đặt ban thờ Ngũ vị tôn ông, ra vào bằng hai cửa bên.
2.6. Công trình kiến trúc trung tâm chùa Lạc Thiện:
Chùa tọa lạc về phía bên phải miếu Lạc Thiện là ngôi chùa có tên chữ là Vĩnh Tường tự. Chùa được xây dựng theo kiểu chữ Đinh ( ), gồm: Tiền đường và Thượng điện.
Toà Tiền đường gồm 3 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc. Tiền đường dài 13,1m, rộng 4,1m, cao 6,8m. Tiền đường là nơi đặt ban thờ Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, ban thờ Đức Thánh Hiền, ban thờ Đức Ông, ban thờ Địa Tạng, ban thờ Hộ Pháp ở hai dĩ.
Hiên chùa dài 13,1m, rộng 2,3m, cao 5,1m. Mái hiên được đỡ bởi hệ thống cột hiên. Hai đốc hiên xây mở hai lối đi, tạo sự thông thoáng cho di tích.
Toà Thượng điện xây nối liền với Tiền đường, có 2 gian chạy dọc gian giữa của Tiền đường, tường hồi bít đốc. Chiều dài 9,9m, chiều rộng 2,7m, cao 4,3m. Thượng điện là nơi đặt các ban thờ Phật. Hiện nay, tại Thượng điện xây 6 cấp bài trí 23 pho tượng.
Kiến trúc cụ thể như sau:
* Kết cấu nền: Nền được xây giật cấp, cao dần vào phía trong. Toàn bộ nền được lát gạch. Nền hiên cao hơn nền sân khoảng 0,80m, nền Tiền đường cao hơn nền hiên 0,01m, nền Thượng điện cao hơn nền Tiền đường 0,03m.
* Kết cấu mái:
Tiền đường: được xây hai mái, mái lợp ngói vẩy, hệ thống vì kèo bằng gỗ tứ thiết, kiểu giá chiêng trụ báng. Các cấu kiện hoành, xà, rui, mè đều bằng gỗ tứ thiết.
Thượng điện: gồm 2 gian chạy dọc tiếp giáp với Tiền đường theo kiểu uốn vòm, tạo thành lối kiến trúc khép kín hình chữ Đinh, mái gắn ngói vẩy. Không có hệ thống hoành, rui, mè và kết cấu vì kèo.
* Kết cấu thân nhà:
- Hệ thống tường: được xây bằng gạch, trát vôi vữa.
- Hệ thống cột: Hiên gồm 6 cột xây bằng gạch, tạo ra 5 lối ra vào tương ứng với 3 gian 2 dĩ của Tiền đường, các lối ra vào được xây uốn vòm, có đắp hệ thồng bờ bàng họa tiết hoa văn trang trí, trên thân cột mặt trước có nhấn chữ Hán. Hai đốc hiên có hai cột được xây cao 5 m làm cột hoa biểu, trên đỉnh cột đắp họa tiết búp sen.
- Hệ thống cửa:
Toà Tiền đường có ba cửa ra vào, kích thước các cửa khác nhau, cửa chính giữa rộng hơn hai cửa bên. Cửa giữa chiều rộng 3m, chiều cao 2,62m, cửa có 6 cánh, 2 cánh chính giữa làm kiểu thượng song hạ bản, 4 cánh còn lại kiểu bức bàn, mỗi cánh rộng 0,5m. Cánh cửa làm bằng gỗ, chân quay, then cài. Hai cửa bên có kích thước bằng nhau, chiều rộng 2,02m, chiều cao 2,62m, cửa có 4 cánh, 2 cánh giữa thiết kể kiểu thượng song hạ bản, 2 cánh còn lại kiểu bức bàn, mỗi cánh rộng 0,5m. Cánh cửa làm bằng gỗ, chân quay, then cài. Phía trước Tiền đường, hai bên dĩ có hai cửa sổ nhỏ hình chữ nhật.
Tòa Thượng điện với 1 lối ra vào, không có hệ thống cánh cửa. Hai đốc Hậu cung, phía trên có hai cửa sổ nhỏ, hình vuông.
* Trang trí mái:
+ Mái Tiền đường: Hai đầu bờ nóc mái, đầu kìm là hai đấu nhỏ hình vuông, trên đỉnh đấu có đắp họa tiết hoa lá cách điệu, bên cạnh đấu là hai đầu rồng tư thế chầu vào trung tâm; Bờ guột hai bên được xây cao, phía dưới giáp với hiên, xây hai đấu nhỏ hình vuông, trên đỉnh đấu đắp họa tiết hình búp sen.
+ Mái hiên: tương ứng với 5 lối ra vào của hiên thì mái hiên cũng được chia làm 5 ô khác nhau. Ô chính giữa hiên được đắp hệ thống bờ bảng trang trí hoa lá cách điệu và xây lầu Phật Bà Quan Âm, trong có tượng Quan Âm, 2 tầng, phần cổ đẳng nối mái trên và mái dưới mặt trước có nhấn 3 chữ Hán: Vọng môn lâu (dịch nghĩa: lầu vọng môn) các đầu đao được uốn cong mềm mại. Hai ô bên cạnh được đắp hệ thống bờ bảng trang trí tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai) và hoa lá cách điệu, phía trên đắp họa tiết bông hoa sen và hoa văn sóng biển. Hai ô ngoài cùng trang trí các con song, phía trên đắp họa tiết hoa văn đường triện.
2.7. Công trình kiến trúc trung tâm miếu Lạc Thiện:
Miếu Lạc Thiện được xây dựng theo kiểu tiền nhất hậu đinh ( ), gồm ba toà: Tiền đường, Trung đường và Hậu cung. Nhìn chung, di tích còn giữ được những nét kiến trúc thời Nguyễn cổ kính.
Toà Tiền đường gồm 3 gian, 2 dĩ. Tường hồi bít đốc, xây dựng theo kiến trúc 4 hàng chân cột. Tiền đường dài 10,7m, rộng 8,5m, cao 5,9m.
Hiên miếu rộng 0,90m, mái hiên được đỡ bởi hệ thống cột hiên và đầu bẩy.
Toà Trung đường gồm 3 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, xây dựng theo kiến trúc 2 hàng chân cột, nhưng một hàng chân cột phía trong là cột trốn (mục đích là để mở rộng không gian thờ cúng). Trung đường dài 10,7m, rộng 3,7m, cao 4,6m.
Toà Hậu cung gồm 1 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc. Chiều dài 5,2m, chiều rộng 3,6m, cao 5,5m.
Kiến trúc cụ thể như sau:
* Kết cấu nền: Nền được xây giật cấp, cao dần vào phía trong. Toàn bộ nền được lát gạch. Nền Tiền đường cao hơn nền sân khoảng 1,2m, ra vào di tích bằng hai lối lên xuống, được xây bậc ngũ cấp, các bậc cách nhau 0,24m. Nền Trung đường cao hơn nền Tiền đường 0,21m. Nền Hậu cung cao hơn nền Trung đường 0,18m.
* Kết cấu mái:
Tiền đường: Mái lợp ngói vẩy, hệ thống vì kèo bằng gỗ lim, kiểu trụ báng, kẻ suốt. Các cấu kiện hoành, xà, rui, mè đều bằng gỗ tứ thiết. Mái trước Tiền đường kiểu chồng diêm.
Trung đường: Mái lợp ngói vẩy, hệ thống vì kèo bằng gỗ lim, kiểu giá chiêng, trụ báng. Các cấu kiện hoành, xà, rui, mè đều bằng gỗ tứ thiết. Mái trước Trung đường kiểu chồng diêm.
Hậu cung: Mái lợp ngói vẩy, vì kèo bằng gỗ lim, kiểu giá chiêng, trụ báng. Các cấu kiện hoành, xà, rui, mè đều bằng gỗ.
* Kết cấu thân nhà:
- Hệ thống tường: được xây bằng gạch, trát vôi vữa.
- Hệ thống cột: Toàn bộ hệ thống cột tại di tích đều bằng gỗ lim, kê trên chân tảng bằng đá.
Tiền đường có 16 cột, trong đó, hai cột ở gian giữa có đường kính 1,15m, các cột khác đường kính nhỏ hơn. Trung đường có 4 cột.
- Hệ thống cửa:
Toà Tiền đường có ba cửa ra vào, kích thước các cửa bằng nhau, chiều rộng 2,02m, chiều cao 1,7m. Cánh cửa bằng gỗ lim, mỗi ô cửa có 4 cánh, rộng 0,5m. Cửa chân quay, 2 cánh giữa thiết kế kiểu thượng song hạ bản, hai cánh còn lại thiết kế kiểu bức bàn. Ngưỡng cửa bằng gỗ, cao 0,38m. Phía trước Tiền đường có hai cửa sổ hình chữ nhật, trang trí chữ Thọ.
Tòa Trung đường cách toà Tiền đường một hiên nhỏ, rộng 0,85m, có 3 cửa ra vào, cửa giữa rộng 2,28m, cao 1,55m, có 6 cánh cửa gỗ, mỗi cánh rộng 0,38m, 2 cánh ở giữa kiểu thượng song hạ bản, các cánh còn lại kiểu bức bàn. Hai cửa bên rộng 2,02m, cao 1,55m, 4 cánh bằng gỗ, kiểu bức bàn. Cửa chân quay, ngưỡng cửa bằng gỗ, cao 0,43m. Phía trước Trung đường có hai cửa sổ hình chữ nhật, trang trí chữ Thọ.
Tòa Hậu cung có 3 cửa, nhưng cửa giữa luôn đóng kín, vì phía trước cửa đặt ban thờ vọng thần quan Bản thổ. Ra vào Hậu cung bằng hai cửa nhỏ hai bên. Cửa cuốn vòm, rộng 0,54m, cao 1,96m, sâu 1,50m. Hai đốc Hậu cung, phía trên có hai cửa sổ nhỏ, hình vuông.
* Trang trí mái: Bờ nóc mái trang trí hoa văn hoa chanh cách điệu, hai đầu bờ nóc là hai đầu rồng. Đầu kìm là hai đấu nhỏ. Phần cổ đẳng ở mái trước Tiền đường trang trí họa tiết tùng, trúc, mai hóa long. Bờ guột hai bên ở phần mái hiên được xây cao, trang trí chim phượng ngậm cuốn thư cách điệu.
2.8. Nhà thờ Tổ:
Tọa lạc phía bên trái miếu Lạc Thiện là nhà thờ Tổ. Công trình có mặt bằng kiến trúc chữ Nhất ( ) gồm 2 tòa: Tiền đường và hậu cung. Nhà thờ Tổ xây dựng quay theo hướng đông nam, các ban thờ trong nhà Tổ cũng quay theo hướng này.
Tòa Tiền đường 3 gian, chiều dai 8m, chiều rộng 3,7m. Hậu cung 3 gian, chiều dài 8m, chiều rộng 3m. Hậu cung gian chính giữa đặt ban thờ và bài trí tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma, được coi là người sáng lập ra phái Thiền Tông; hai gian bên đặt ban thờ chân linh các vị Tổ sư đã tu hành ở chùa qua thời gian. Tượng Bồ Đề Đạt Ma có mũi cao, tóc quăn, râu quai nón.
Hiên Tiền đường: 4 cột hiên tạo ra 3 lối ra vào tương ứng với 3 cửa Tiền đường, hiên với 2 cột tròn ở giữa, 2 cột vuông hai bên làm bằng bê tông sơn nâu giả gỗ. Bậc hiên được xây nhị cấp, các bậc cách nhau 0,25m. Nền hiên cao hơn sân 0,5m, nền Tiền đường cao hơn nền hiên 0,1m, nền Hậu cung cao hơn Tiền đường 0,25m. Nền nhà Tổ được lát gạch đỏ. Mái Tiền đường cao hơn mái Hậu cung.
Kết cấu vì kèo kiểu giá chiêng trụ báng kẻ suốt, tạo cho ngôi nhà vừa vững chãi vừa kiên cố; hệ thống hoành, rui, mè bằng gỗ tứ thiết. Vật liệu xây dựng kết hợp hài hòa cả chất liệu cổ truyền và hiện đại, tạo cho ngôi nhà vừa đảm bảo tính cổ truyền, vừa vững chãi, kiên cố. Tường được xây dựng bằng gạch trát vôi vữa, mái lợp ngói vẩy theo kiến trúc nhà ở truyền thống.
Như vậy, di tích miếu và chùa Lạc Thiện có nhiều hạng mục kiến trúc được xây dựng đăng đối theo phong cách kiến trúc truyền thống dân tộc. Mặc dù đã được trùng tu tôn tạo song các thành phần kiến trúc vẫn luôn hòa nhập trong cùng tổng thể, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và tôn giáo cho đông đảo nhân dân trong khu vực.
2.9. Nhà khách:
Nhà khách được xây dựng năm 2016, dùng làm nơi tiếp khách và hội họp khi có việc làng. Nhà hình chữ Nhất ( ), gồm 3 gian, quay hướng Tây, chiều dài là 8m, chiều rộng là 4,2m. Nhà được xây đơn giản, theo kiểu truyền thống của người Việt, mái chảy, nền lát gạch hoa. Nhà có 2 cửa ra vào, cửa làm bằng gỗ tứ thiết. Nền nhà cao hơn nền sân 0,4m, bậc xây nhị cấp, các bậc cách nhau 0,2m.
2.10. Lầu thờ bà Làng:
Theo các cụ cao niên trong làng, tại huyện Kim Sơn chỉ duy nhất ở Lạc Thiện có lầu thờ bà Làng. Theo truyền lại, trước đây, làng Lạc Thiện có mua chiêng của đền Sòng, Thanh Hóa về để tại miếu. Bà Làng là nhân vật thờ tại đền Sòng cũng theo tiếng chiêng về đây. Từ đó, nhân dân lập lầu thờ bà, lầu quay hướng Tây, lầu hình chữ Nhất ( ), có một gian, giáp với nhà khách, có một cửa ra vào, cửa làm bằng gỗ tứ thiết. Lầu được xây dựng đơn giản như ngôi nhà truyền thống của người Việt, mái chảy nhưng nhân dân Lạc Thiện từ xưa đến nay vẫn gọi nơi này là lầu thờ bà Làng. Đây cũng là nơi thờ Hậu của di tích.
PHẦN VII: SƠ ĐỒ PHÂN BỐ HIỆN VẬT TẠI DI TÍCH
1. Sơ đồ phân bố hiện vật tại miếu Lạc Thiện
A (Hậu cung)
|
1 |
4 |
2 |
5 |
3 |
4 |
11 |
6 |
10 |
9 |
9 |
7 |
8 |
19 |
12 |
14 |
15 |
15 |
15 |
17 |
17 |
17 |
18 |
18 |
18 |
16 |
16 |
13 |
20 |
20 |
B (Trung đường) |
B2
10 |
B3 |
B1 |
1 |
2 |
6 |
3 |
4 |
7 |
7 |
5 |
8 |
9 |
9 |
9 |
B4
11 |
1 |
2 |
2 |
4 |
4 |
2 |
3 |
3 |
3 |
5 |
5 |
6 |
7 |
7 |
8 |
10 |
9 |
9 |
13 |
12 |
12 |
1 |
2 |
4 |
5 |
6 |
6 |
3 |
1 |
2 |
3 |
5 |
6 |
6 |
6 |
4 |
4 |
7 |
C (Tiền đường)
|
1 |
2 |
3 |
4 |
7 |
8 |
8 |
7 |
5 |
9 |
10 |
6 |
6 |
Chú thích:
A: Hậu cung: Ban thờ Cao Sơn đại vương
1. Khám thờ 2. Ngai 3. Tượng 4: Hia 5. Mũ 6. Bài vị 7. Ống bài vị 8. Ống hương 9. Chân nến 10. Hòm sắc |
11. Nhang án 1 12. Mũ 13. Hòm sắc 14. Bát hương 15, 17. Đài rượu 16. Chân nến 18. Mâm mịch 19. Nhang án 2 20. Ngựa gỗ |
B. Trung đường
B1: Ban thờ nguyên, thứ, tòng mộ 1. Ngai thờ 2. Bài vị 3. Chân nến 4. Đỉnh 5. Bát hương 6. Chân nến |
B2: Ban thờ quan Bản thổ 1. Ngai thờ 2. Mũ 3. Đỉnh 4. Ống hương 5. Hộp đựng trầm 6. Lục bình 7. Chân nến 8. Bát hương 9. Đài rượu 10. Nhang án |
B3: Ban thờ chiêu mộ Vũ Khắc Minh 1. Ngai 2. Bài vị 3. Đỉnh 4. Chân nến 5. Bát hương 6. Chân nến 7. Đài rượu 8. Mâm bồng |
B4: Ban thờ Hội đồng các quan
1. Tượng 2. Bát hương 3. Đài rượu 4. Chân nến 5. Giá kiếm 6. Mâm bồng |
7, 9. Chân nến 8. Đỉnh thờ 10. Chóe 11. Nhang án 12. Ngựa 13. Giá súng (có 4 súng gỗ) |
C. Tiền đường: Ban thờ Công đồng
Nhang án 1. Ngai thờ 2. Bài vị 3. Đế bát hương 4. Bát hương |
Nhang án 5. Bát hương 8. Lục bình 6. Chân nến 9. Bảng chúc 7. Hạc 10. Giá chiêng
|
2. Sơ đồ phân bố hiện vật tại chùa Lạc Thiện
A (Thượng Điện) |
11 |
10 |
12 |
13 |
13 |
13 |
131 |
13 |
13 |
13 |
15 |
14 |
16 |
17 |
18 |
19 |
8 |
7 |
9 |
5 |
4 |
6 |
2 |
1 |
3 |
B
B (Tiền đường) |
B1 |
3 |
1 |
3 |
2 |
B5 |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
1
B6 |
2 |
1
B2 |
2 |
B3 |
1 |
2 |
4 |
3 |
5 |
6 |
6 |
6 |
7 |
7 |
8 |
8 |
9 |
10 |
B7 |
1 |
B4 |
1 |
2 |
4 |
2 |
3 |
5 |
5 |
6 |
6 |
Chú thích:
A: Thượng điện
1: Tượng A Di Đà |
9: Tượng Đức Thánh Hiền |
2: Tượng Đại Thế Chí |
10,11: Tượng Thích Ca |
3: Tượng Quan Âm Nam Hải |
12: Tượng Di Lặc |
4: Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay |
13: Tượng 7 vị dược sư |
5: Tượng Đế Thiên |
14, 15: Tượng Quan Âm Bồ Tát |
6: Tượng Đế Thích |
16: Xá lợi Phật |
7: Tòa Cửu long |
17, 18,19: Bát hương |
8: Tượng Đức Thánh Trần |
|
B: Tiền đường
B1: Ban thờ Quan Âm |
B3: Ban thờ Đức Ông |
B4: Ban thờ Địa Tạng |
1: Tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay |
1: Long đình |
1: Tượng Địa Tạng |
2: Bát hương |
2: Tượng Đức Ông |
2: Đỉnh đồng |
3: Chân nến |
3: Bát hương |
3,4: Bát hương |
B2, B6: Ban thờ Hộ Pháp |
4: Tượng quan Văn |
5,6: Chân nến |
1: Tượng Hộ Pháp |
5: Tượng quan Võ |
B5: Ban thờ Đức Thánh Hiền |
2: Bát hương |
6: Đài rượu |
1: Long đình |
B7: Ban thờ Hậu |
7: Đèn thờ |
2: Tượng Đức Thánh Hiền |
1: Bát hương |
8: Ngựa gỗ |
3: Bát hương |
|
9: Chân nến |
4: Ống hương |
|
10: Giá chiêng |
5, 6: Mâm bồng |
3. Hiện vật tiêu biểu:
Bên cạnh giá trị về lịch sử, văn hóa thì hiện nay miếu và chùa Lạc Thiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật với các thể loại và chất liệu khác nhau như: hiện vật bằng giấy, gỗ, đá, đồng. Sau đây là một số hiện vật có giá trị tiêu biểu:
- Sắc phong: Tại miếu Lạc Thiện còn lưu giữ được 03 đạo sắc phong, trong đó các sắc phong đều thời Nguyễn. Các đạo sắc được làm bằng giấy dó, có kích thước dài 130cm, rộng 51cm, được ban tặng vào các niên hiệu: Tự Đức thứ 3 (1850), Tự Đức thứ 33 (1880), Khải Định thứ 9 (1924). Trên các đạo sắc phong ngoài chữ Hán còn in hình rồng, vân mây, bốn góc tạo hình bốn ô, vẽ đề tài tứ linh, diềm sắc vẽ cẩn quy. Trên mỗi đạo sắc tại phần lạc khoản đóng dấu ấn của vua trong khung hình vuông với bốn chữ Hán “Sắc mệnh chi bảo” kiểu chữ triện. Về nội dung các đạo sắc: 02 đạo sắc đời vua Tự Đức ghi nhận công lao và sự thờ tự đối với Cao Sơn đại vương, 01 đạo sắc đời vua Khải Định ghi nhận công lao và sự thờ tự đối với Dực bảo Trung hưng Quan Thánh Đế Quân Thiên (nhân vật này không rõ lai lịch).
- Khám thờ, ngai thờ, bài vị, bát hương, nhang án thờ Cao Sơn đại vương được thờ trang trọng trong tòa Hậu cung của miếu.
+ Khám thờ: Khung gỗ, các cạnh bằng kính trắng, trong suốt, bên trong khám đặt 1 mũ thờ bằng đồng lá; 1 đôi hia bằng đồng lá; 1 ngai thờ bằng gỗ (Các hiện vật này đều có niên đại thời Nguyễn). Khám thờ có kích thước cao 228cm, rộng 112cm, dài 166cm.
+ Ngai thờ thần Cao Sơn đại vương có kích thước cao 110cm, rộng 50cm, dài 77cm, chia làm 3 phần, tay ngai chạm hình đầu rồng, phần trụ ngai phía trên, phía dưới chạm con tiện, phần giữa chạm rồng. Lưng ngai chia ra các ô chạm các đề tài rồng, hổ phù. Diềm lưng ngai chạm rồng. Bệ ngai làm theo kiểu chân quỳ dạ cá, ba mặt chạm hổ phù. Trên bệ ngai chia thành ba ô, chạm thông phong các đề tài lưỡng long chầu nguyệt, hoa thị. Những đường nét chạm khắc trên ngai tinh xảo, khỏe khoắn, mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
+ Nhang án: được đặt trong Hậu cung của miếu có kích thước cao 84cm, dài 103cm, rộng 50cm. Toàn bộ mặt trước và mặt bên của nhang án đều được đục chạm đề tài tứ linh, tứ quý và các họa tiết hồ phù, mây tản, hoa lá cách điệu. Căn cứ vào đề tài trang trí thì đây là hiện vật tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
+ Bát hương thờ thần Cao Sơn đại vương, có kích thước cao 11cm, đường kính 24cm. Bát hương sứ, hình tròn miệng loe, trang trí rồng chầu mặt nguyệt, vân mây. Bát hương có niên đại thời Nguyễn.
- Ngai thờ chiêu mộ Vũ Khắc Minh có kích thước cao 106m, rộng 53cm, dài 69cm, chia làm 3 phần, tay ngai chạm hình đầu rồng, phần trụ ngai phía trên, phía dưới chạm con tiện, phần giữa chạm rồng. Lưng ngai chia ra các ô chạm các đề tài rồng, hổ phù. Diềm lưng ngai chạm rồng. Bệ ngai làm theo kiểu chân quỳ dạ cá, ba mặt chạm hổ phù. Trên bệ ngai chia thành ba ô, chạm thông phong các đề tài lưỡng long chầu nguyệt, hoa thị. Những đường nét chạm khắc trên ngai tinh xảo, khỏe khoắn, mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
- Đỉnh đồng có kích thước cao 49cm, đường kính tai 23cm, thân hình bát giác (8 cạnh) nổi hình chữ Thọ, trên đỉnh có hình sư tử vờn cầu, hai tai cong hình ngà voi, chân quỳ dạ cá. Đỉnh đồng có niên đại thời Nguyễn.
- Bát hương sứ, có kích thước cao 12cm, đường kính 25cm. Bát hương hình tròn miệng loe, trang trí rồng chầu mặt nguyệt, vân mây. Bát hương có niên đại thời Nguyễn.
- Đỉnh đồng có kích thước cao 38cm, dài 26cm, rộng 16cm, thân hình chữ nhật, chân quỳ dạ cá, để trơn không trang trí. Đỉnh đồng có niên đại thời Nguyễn.
- Nhang án có kích thước cao 164cm, dài 163cm, rộng 98cm. Nhang án được chia ô, trang trí 3 mặt, mặt trước và hai mặt bên của nhang án đều được đục chạm đề tài tứ linh, tứ quý và các họa tiết hồ phù, mây tản, chữ thọ, hoa lá cách điệu. Căn cứ vào đề tài trang trí thì đây là hiện vật tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
- Chuông đồng: có chiều cao 56cm, đường kính miệng rộng 29cm. Chuông chia thành 3 phần: quai chuông đúc nổi họa tiết rồng đấu thân, thân chuông tạo thế thon dần về phía trên, xung quanh có các đường gờ nổi chia thành 4 ô cân xứng, mỗi ô có một núm tròn đúc nổi, phía trước có họa tiết tứ linh: long, ly, quy, phượng. Lợi chuông dật cấp 3 lần có đường viền xung quanh loe ra to hơn thân chuông. Phần minh văn (chữ Hán) trên chuông nêu tên gia đình đóng góp công đức tiền của để đúc chuông.
- Bia đá có kích thước cao 75cm, rộng 40cm. Bia được gắn ở hông tường phía bên phải trước cửa Trung đường (nhìn từ ngoài vào). Bia gồm 100 chữ, khắc năm Bảo Đại thứ 13 (1937). Nội dung văn bia ghi việc công đức tu sửa miếu Lạc Thiện.
- 21 mộc bản bằng chữ Hán có kích thước không đều nhau. Khổ nhỏ nhất có kích thước 21 x 25cm, khổ lớn nhất có kích thước 23 x 29cm, dày 2cm, chất liệu gỗ, niên đại năm Duy Tân thứ 3 (1909). Mộc bản có nội dung dài nhất với 180 chữ gồm 12 hàng dọc, mỗi hàng đúng 15 chữ. Mộc bản có nội dung ngắn nhất với 58 chữ. Tất cả các mộc bản đều khắc hai mặt, mộc bản nói về kinh giáng bút của Cao Sơn đại vương và Tam vị Thánh Mẫu cảnh thế chân kinh.
Và một số đồ thờ tự khác. (Chi tiết xem tại bản thống kê hiện vật kèm theo)
PHẦN VIII: GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH
Di tích được xây dựng gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của làng xã diễn ra từ thế kỷ XIX. Chiêu mộ Vũ Khắc Minh đã theo Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ và cùng với thủy tổ của các dòng họ đến đây khai hoang, lấn biển lập nên vùng đất mới. Khi đến khai khẩn vùng đất này, Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ cùng các chiêu mộ trong đó có chiêu mộ Vũ Khắc Minh đã thiết lập nên một đời sống tinh thần ổn định cho nhân dân, để họ yên tâm sinh sống trên mảnh đất mới, xây dựng quê hương ngày một trù phú, phát triển.
Miếu Lạc Thiện là nơi thờ thần Cao Sơn Đại vương, một nhân vật huyền thoại thời Hùng Vương thứ 18. Ông có công với đất nước và được nhiều nơi thờ cúng, tưởng niệm. Tại miếu Lạc Thiện, ông được thờ với vai trò một “thành hoàng làng”, che chở và phù giúp nhân dân trong cuộc sống. Bổ sung vào hệ thống các di tích thờ thần Cao Sơn nói riêng, thờ các vị thần liên quan đến thời Hùng Vương nói chung trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Việc thờ tự Cao Sơn đại vương tại đất Lạc Thiện xuất hiện cùng quá trình lập ấp lập làng. Sau khi đã ổn định cuộc sống, để tưởng nhớ quê hương bản quán, các vị chiêu, nguyên, thứ mộ đã rước thần vị Cao Sơn đại vương về thờ phụng. Chùa Lạc Thiện là nơi thờ Phật, một tín ngưỡng văn hóa của người Việt.
Tìm hiểu về di tích, chúng ta có cơ hội hiểu thêm về công cuộc khẩn hoang lấn biển, chiêu dân lập ấp của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ; về sự hình thành và phát triển của vùng đất mới Kim Sơn; về phong tục, văn hoá, nếp sống của nhân dân thời đó. Thông qua di tích, có thể thấy rằng các vị tiên hiền là những người có công đầu trong công cuộc khẩn hoang lập lên các làng, ấp. Các vị vừa là những người đứng ra chiêu tập dân chúng, chịu trách nhiệm trước nhà nước về công cuộc khẩn hoang, trực tiếp tổ chức điều hành công việc khẩn hoang, xây dựng các công trình trị thủy lấn biển ở vùng đất mới. Đồng thời, là những người đứng mũi chịu sào trước những khó khăn trở ngại để giúp mọi người có thể vượt qua và đứng vững với cuộc sống mới ở nơi khai hoang, sau khi hóa lại phù trợ nhân dân trừ tai diệt họa, giữ yên cho dân, công lao vô cùng to lớn. Bởi vậy, sau này nhân dân đều lập miếu, tạc bia thờ tự trang nghiêm, tôn thờ các vị làm phúc thần của các thôn, xã. Đây là tín ngưỡng dân gian độc đáo, mang tính bản địa của dân tộc ta. Phong tục thờ cúng tổ tiên, thờ các vị tiền nhân có công với dân, lập làng, lập ấp, là một truyền thống ngàn đời của cha ông ta, thể hiện tinh thần nhớ ơn tổ tiên của nhân dân. Thờ cúng thành hoàng làng là một phong tục lâu đời của cư dân Việt, việc thờ cúng thành hoàng làng tại vùng đất mới là hiện tượng di dân, di thần.
Cuộc khẩn hoang của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ và các chiêu mộ đã mở đầu cho công cuộc chinh phục đất đai bỏ hoang và tạo phong trào khẩn hoang ở những triều đại sau này. Từ khi thành lập đến nay, huyện kim Sơn đã qua 7 lần tổ chức quai đê, lấn biển, trung bình mỗi năm bồi tụ tiến ra biển từ 80-100m [1].
Hiện nay, Kim Sơn là một huyện có mật độ đồng bào theo đạo công giáo đông nhất cả nước, chiếm 45% dân số toàn huyện. Đồng bào lương giáo đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển kinh tế xã hội, cùng nhau xây dựng quê hương, xóm làng ngày càng văn minh giàu đẹp.
Tìm hiểu về di tích, chúng ta có dịp tìm hiểu về truyền thống cách mạng của vùng đất có di tích. Thôn Lạc Thiện (hiện nay gồm 6 xóm: 7, 8, 9, 12, 13, 16) là thôn có nhiều thành tích, đóng góp cả sức người, sức của trong các cuộc kháng chiến dân tộc. Ngày 16/4/1948, chi bộ Quang Trung (nay là xã Quang Thiện) được thành lập tại miếu Giáp Nhì, xóm 9, thôn Lạc Thiện[2]. Tháng 10 năm 1949, Pháp nhảy dù chiếm đóng Kim Sơn, lập 19 đồn bốt để cai trị. Tháng 11/1949, chúng lập bốt ở Lạc Thiện đóng quân chủ lực để chống phá cách mạng của ta. Nhân dân thôn Lạc Thiện nói riêng, xã Quang Trung nói chung đều kiên cường chiến đấu, tin tưởng và đi theo cách mạng. Trong kháng chiến chống Mỹ, thời gian từ năm 1967 đến 1973, xóm 8 có 122 gia đình là cơ sở sơ tán của cơ quan Huyện ủy Kim Sơn; gia đình cụ Trần Văn Thiệp, xóm 8 là nơi sơ tán làm việc của đồng chí Trần Tính, Bí thư huyện ủy Kim Sơn đương thời. Tính đến nay, thôn Lạc Thiện có 60 liệt sỹ hy sinh trong các cuộc kháng chiến, cống hiến một phần xương máu cho độc lập Tổ quốc, 05 bà mẹ được phong tặng danh hiệu mẹ Việt Nam anh hùng (mẹ Vũ Thị Nuôi, Nguyễn Thị Víp, Vũ Thị Tý, Trần Thị Nụ, Đỗ Thị Niên) [3].
Các xóm trong thôn Lạc Thiện đều được công nhận danh hiệu “Làng văn hóa cấp tỉnh” và có phong trào hiếu học phát triển, quỹ khuyến học Cao Sơn đại vương được tổ chức vào ngày mùng 5 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Hiện nay, Lạc Thiện có 03 vị giáo sư và phó giáo sư, 05 tiến sỹ, 01 thiếu tướng, 07 đại tá, 03 thượng tá; là quê hương của đồng chí Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính Trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các đoàn thể đều vững mạnh, hoạt động có hiệu quả.
Công trình kiến trúc miếu và chùa Lạc Thiện được xây dựng trên một khuôn viên rộng gồm các hạng mục: Nghi môn, sân vườn, lầu Phật Bà Quan Âm, vườn tháp, nhà khách, lầu thờ bà Làng, miếu thờ Cao Sơn Đại Vương và chiêu mộ Vũ Khắc Minh, chùa thờ Phật, phủ thờ Mẫu, nhà Tổ thờ tổ Bồ Đề Đạt Ma...Miếu Lạc Thiện được xây dựng gần 200 năm, tại miếu còn lưu giữ được nhiều hiện vật, đồ thờ tự quý như sắc phong của các triều đại nhà Nguyễn, bia đá, mũ thờ, bài vị, bát hương, nhang án… Điều này thể hiện ý thức cao trong việc giữ gìn những di sản văn hóa của người dân địa phương. Đó là những nguồn sử liệu quan trọng giúp chúng ta nghiên cứu về quá trình hình thành, tồn tại của di tích. Kiến trúc của di tích về cơ bản còn giữ được những mảng hoa văn chạm khắc từ thời Nguyễn. Từ lâu, di tích đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của dân làng, góp phần giáo dục các thế hệ đời sau về truyền thống, nền nếp, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, miếu và chùa Lạc Thiện là nơi diễn ra nhiều hội nghị, các lớp tập huấn, là địa điểm để thanh niên địa phương tập võ chuẩn bị lực lượng chiến đấu. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, m và chùa Lạc Thiện là nơi hội họp, tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; là cơ sở tập luyện của du kích xã; nơi động viên đưa tiễn thanh niên lên đường tòng quân giết giặc.
Khai thác giá trị di tích phục vụ phát triển du lịch: Di tích nằm gần quốc lộ 10, cạnh đền thờ Nguyễn Công Trứ (di tích cấp quốc gia), cách Nhà thờ đá Phát Diệm (di tích cấp quốc gia) 3km về phía đông, trong xã có miếu làng Lưu Quang, miếu làng Ứng Luật đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh. Kim Sơn lại là huyện có ưu thế về biển. Vì vậy, di tích rất có lợi thế về phát triển du lịch tâm linh.
PHẦN IX: THỰC TRẠNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
Trải qua thời gian, hiện nay công trình miếu và chùa Lạc Thiện đã có nhiều thay đổi nhưng các kiến trúc gần như còn giữ được nguyên trạng. Những năm gần đây, chính quyền và nhân dân đã không ngừng quan tâm tu bổ để di tích ngày một khang trang, bền vững. Việc tu bổ luôn được nhân dân chú ý bảo tồn phong cách kiến trúc cổ truyền. Công tác bảo vệ miếu và chùa đặt dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền xã, nhà sư trụ trì và các bậc cao niên trong làng có uy tín đảm nhiệm nên đã không xảy ra tình trạng mất mát, làm sai lệch giá trị của di tích.
Năm 2016, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Bình phối hợp với nhân dân và chính quyền địa phương tiến hành tu bổ chống xuống cấp cho miếu Lạc Thiện, đảo ngói, thay thế cấu kiện mái bị hư hại.
Hiện UBND xã Quang Thiện đã thành lập Ban quản lý di tích, được kiện toàn qua các năm do đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã làm trưởng ban, đại diện các ban ngành là thành viên. Địa phương đã thành lập Ban khánh tiết, gồm 23 người, ông Trần Xuân Vinh làm trưởng ban. Ban Khánh tiết có nhiệm vụ trông coi, bảo vệ di tích, sưu tầm tư liệu liên quan đến di tích, tuyên truyền, vận động nhân dân công đức để tu sửa, tôn tạo và bảo tồn di tích ngày càng khang trang. Tại chùa có ni sư Thích Đàm Thanh trụ trì, chăm lo việc tụng kinh, hương khói hàng ngày.
Về mặt pháp lý, di tích đã được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (thửa số 210, tờ bản đồ số 26, diện tích 2013 m2, mang tên chùa Lạc Thiện, cấp năm 2006 và thửa số 88, tờ bản đồ số 26, diện tích 1950 m2, mang tên miếu Lạc Thiện, cấp năm 2010).
Hiện nay, di tích được Nhà nước và nhân dân quan tâm, bảo vệ tốt, nhằm phát huy tác dụng của di tích, góp phần giáo dục lòng tự hào, lòng yêu quê hương, đất nước đối với các thế hệ con cháu.
PHẦN X. PHƯƠNG HƯỚNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
Qua thực trạng bảo vệ và khảo sát tại di tích, chúng tôi đề xuất phương hướng bảo vệ và phát huy giá trị di tích nhằm bảo tồn bền vững di tích gắn với việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương như sau:
- Việc quản lý, bảo tồn, tôn tạo và phát huy tác dụng của di tích phải đảm bảo các quy định của Luật Di sản văn hóa, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
- Hàng năm, cần phát huy các nét sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng truyền thống, nhằm giáo dục cho nhân dân địa phương về các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung, nâng cao tinh thần đoàn kết cộng đồng.
- Cần có biện pháp để bảo vệ, giữ gìn được những hiện vật có giá trị của di tích và giá trị lịch sử, văn hóa tín ngưỡng của di tích.
- Thường xuyên duy trì sự hoạt động của Ban quản lý di tích, trong ban phải có người am hiểu lịch sử của địa phương và di tích để trực tiếp tham gia vào công việc tuyên truyền, phát huy giá trị của di tích.
- Trên địa bàn xã Quang Thiện có nhiều di tích đã được xếp hạng, có di tích thờ Phật, có di tích thờ Thánh, thờ Thần đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của các loại hình di tích lịch sử. Vì vậy cần phát huy mạnh hơn nữa những nguồn tài nguyên vốn có của địa phương, tạo sự liên kết giữa các di tích với nhau, đưa di tích vào khai thác, phục vụ khách du lịch trong tuyến du lịch Ninh Bình - Kim Sơn để di tích Miếu và chùa Lạc Thiện sẽ là một trong những điểm hành trình về di sản trong tương lai.
XI. KẾT LUẬN
Từ những giá trị tiêu biểu về lịch sử, kiến trúc và văn hóa trên đây, di tích Miếu Lạc Thiện, xóm 16, xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn đã được UBND tỉnh ra quyết định số 54/QĐ-CT, ngày 21 tháng 01 năm 2011 xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa.
Thực hiện công văn số 410/DSVH-DT ngày 26 tháng 6 năm 2017 của Cục Di sản văn hóa về việc lập Hồ sơ Khoa học di tích quốc gia, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình đã chỉ đạo Phòng Quản lý di sản văn hóa khảo sát, nghiên cứu, tập hợp tư liệu hoàn thành hồ sơ khoa học di tích Miếu và chùa Lạc Thiện, xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Xuất phát từ những giá trị nổi bật của di tích, thể theo nguyện vọng của chính quyền và nhân dân địa phương, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình trân trọng đề nghị Cục Di sản văn hóa trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Miếu và chùa Lạc Thiện, xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình là di tích cấp quốc gia.
XII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn – 1829, Đào Tố Uyên, Nguyễn Cảnh Minh. Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Kim Sơn. 2012.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Bản dịch của Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
3. Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình, Trương Đình Tưởng (cb), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2004.
4. Hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh: Miếu Lạc Thiện, xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn, năm 2010. Tài liệu lưu tại Phòng Quản lý di sản văn hóa, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình.
5. Hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh: Đền thờ Vũ Khắc Minh, xã Hùng Tiến, huyện Kim Sơn, năm 2012. Tài liệu lưu tại Phòng Quản lý di sản văn hóa, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình.
6. Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biên, Nguyễn Tử Mẫn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
7. Lịch sử Đảng bộ xã Quang Thiện (1948-2007), 2009.
8. Lịch sử Đảng bộ huyện Kim Sơn (1947-2007), 2008.
9. Thần tích Việt Nam, Lê Xuân Quang, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2005.
10. Việt sử cương mục tiết yếu, Quốc sử quán triều Nguyễn, Bản dịch của Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.
PHÒNG QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA TRƯỞNG PHÒNG
Vũ Thanh Lịch |
Ninh Bình, tháng 8 năm 2017NGƯỜI VIẾT LÝ LỊCH
Nguyễn Thị Quyên |
SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO
[1] Lịch sử Đảng bộ huyện Kim Sơn (1947-2007), xuất bản 2008, trang 8.
[2] Lịch sử Đảng bộ xã Quang Thiện (1948-2007), xuất bản 2009, trang 38
[3] Lịch sử Đảng bộ xã Quang Thiện (1948-2007), xuất bản 2009, trang 298, 299, 300.
KHÁI QUÁT DI TÍCH MIỀU LÀNG ỨNG LUẬT
Miếu làng Ứng Luật, đây là cách gọi tên miếu theo tên của làng. Theo các cụ cao niên trong làng thì hai từ Ứng Luật nghĩa chữ Hán mang tính tượng thanh và tượng hình, tạm dịch là Gióng Sáo, để chỉ vùng đất có hình như cây sáo, gió thổi qua nghe như tiếng sáo.
Qua tư liệu cổ cùng nguồn truyền thuyết và thực tế tại miếu làng Ứng Luật thờ Triệu Việt Vương, ngoài ra còn có ban thờ Hùng Đô Đại Tướng Quân, ban thờ Thần Bản thổ và ban thờ Chiêu mộ Trần Duy Thiều (quê gốc ở làng Quỹ Nhất, xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định) cùng một số nguyên mộ có công lập làng khác.
Miếu làng Ứng Luật, được xây dựng cùng với thời điểm thành lập làng. (năm 1829). Miếu có cấu trúc hình chữ tam (≡) là ba tòa Tiền bái (Tiền đường), Trung đường và Chính ngự, nằm trên khu đất rộng 3.555m2. Hiện nay, miếu Ứng Luật thuộc địa phận xóm 3 xã Quang Thiện.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp: Nơi diễn ra nhiều hội nghị, nhiều lớp tập huấn do huyện và xã tổ chức, đây cũng là địa điểm thanh niên địa phương đến tập võ để chuẩn bị lực lượng chiến đấu với địch. Vào năm 1949 khi giặc Pháp nhảy dù xuống Kim Sơn, miếu làng Ứng Luật trở thành căn cứ kháng chiến của xã Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ có một bộ phận của văn phòng huyện ủy huyện Kim Sơn, cùng với nhân dân địa phương đào hầm tại miếu để tránh bom đạn.
Hiện nay tại di tích còn lưu giữ được một số loại hiện vật quý thời Nguyễn như: Mười sắc phong dưới các thời vua triều Nguyễn, trong đó sớm nhất là sắc phong ngày 12 tháng Giêng năm thứ 6 đời vua Tự Đức (1853). Ngoài ra, còn có Tượng thờ Triệu Việt Vương; Hệ thống câu đối bằng gỗ; Song (hai chiếc giống nhau) bình bằng sứ, thời Thanh; Một chiếc chóe thời Thanh, vẽ lam trắng với chủ đề rồng mây cùng chim công, hoa mẫu đơn, trên thân chóe còn đắp 4 đầu hổ phù đối xứng nhau quanh vai bình.
Tại Miếu làng Ứng Luật có những hình thức sinh hoạt lễ hội truyền thống mang đậm nét văn hóa của người Việt như: Lễ hội Kỳ Yên (Kỳ An, Kỳ Phúc) diễn ra trong 3 ngày từ ngày 13 đến hết ngày 15 tháng Giêng hàng năm; Lễ Rằm tháng Ba (ngày giỗ Hùng đô Đại tướng quân); Lễ Rằm tháng Tám (lễ giỗ Triệu Việt Vương); Lễ Mở cửa miếu, lễ này diễn ra vào ngày mồng 6 tháng Giêng.
Trải qua gần 200 năm tồn tại, miếu làng Ứng Luật đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo ( năm 1840, 1883, 1945, 1991, 2004) song phần kiến trúc gỗ của tòa Tiền Bái (tiền đường) và Tòa Chính ngự xây cuốn vòm bằng chất liệu vôi và mật còn giữ được yếu tố gốc của di tích.
Di tích được UBND tỉnh Ninh Bình xếp hạng là Di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2009.
KHÁI QUÁT DI TÍCH MIẾU TUẦN LỄ
Di tích có tên gọi là miếu Tuần Lễ, tức là gọi theo tên làng Tuần Lễ, hiện thuộc địa bàn xóm 8, xã Như Hòa, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Ngoài tên gọi trên, di tích còn có tên gọi khác là miếu Vũ, thờ thành hoàng làng Tuần Lễ.
Làng Tuần Lễ khi mới thành lập là trại Tuần Lễ. Năm 1829, khi Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ đứng ra chỉ đạo và tổ chức một cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn, chiêu mộ Lê Văn Uẩn (người xã Phúc Nhạc, tổng An Vân, huyện Yên Mô) cùng với phó chiêu mộ Nguyễn Hữu Lượng (người quê ở Bồng Hải, xã Khánh Thiện, Yên Khánh) và 17 nguyên mộ, 7 thứ mộ và tân mộ về đây lập nên trại Tuần Lễ. Sau khi đã khai hoang lập ấp xong, xóm làng đông đúc, trù phú. Vào những năm 1846, các cụ trong trại cho xây dựng đền, miếu, văn chỉ làm nơi thờ cúng thành hoàng làng, đức Khổng Tử, nơi giao lưu hội họp việc làng. Miếu làng xây dựng xong các cụ cử người đến Phúc Nhạc rước chân nhang về thờ Tề Hải Long Vương và phong là Thành hoàng làng Tuần Lễ (Theo tư liệu Hán nôm, di vật hiện còn lưu giữ ở miếu cho thấy miếu được nhân dân trong làng khởi công xây dựng năm 1902).
Ngoài thờ Hải Tề Long Vương, hiện nay, tại miếu còn thờ Trần Hưng Đạo, thờ các vị chiêu, nguyên, thứ, tân mộ lập nên trại Tuần Lễ.
Miếu Tuần Lễ có kiến trúc theo kiểu tiền nhất hậu đinh, gồm ba tòa Tiền đường, Thiêu hương (còn gọi là Trung đường) và Hậu cung, hiện còn giữ được nhiều nét kiến trúc cổ, đặc sắc theo phong cách kiến trúc đời Nguyễn.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp miếu Tuần Lễ là cơ sở tập luyện của dân quân du kích xã. Trong kháng chiến chống Mỹ, miếu Tuần Lễ là nơi chứa đựng lương thực và các vật lực khác của Nhà nước, của HTX, là nơi học tập, huấn luyện của dân quân du kích, thanh niên lên đường phục vụ tiền tuyến góp phần hòa chung vào với cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Tại miếu Tuần Lễ còn lưu giữ một số hiện vật quý như: Khám thờ, Tượng thờ, Sắc phong, Bát hương, Long ngai, bài vị, Đại tự, câu đối, Bản chúc, quán tẩy… Đây là một trong những ngôi miếu còn lưu giữ được nhiều tài liệu về công cuộc khẩn hoang lập làng ở huyện Kim Sơn.
Tại di tích hàng năm diễn ra các ngày tế lễ mang đậm bản sắc dân tộc như: Ngày kỵ Hải Tề Long Vương: 10/12 (âm lịch), Kỷ niệm ngày giỗ của cụ Lê Văn Uẩn, Tết Nguyên Đán, ngày rằm, mùng 1, các ngày giỗ các cụ nguyên, thứ, tân mộ đều có dâng hương đèn nhang.
Xuất phát từ những giá trị nhiều mặt của di tích, thể theo nguyện vọng của chính quyền và nhân dân địa phương. Ban quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh Ninh Bình lập hồ sơ khoa học đề nghị Hội đồng khoa học xét duyệt trình và được UBND tỉnh Ninh Bình ra Quyết định xếp hạng di tích miếu Tuần Lễ, xã Như Hòa, huyện Kim Sơn là Di tích lịch sử - văn hóa vào năm 2006.
KHÁI QUÁT DI TÍCH MIẾU LÀNG TRUNG QUY
Di tích có tên gọi là miếu làng Trung Quy, vì miếu được xây dựng ở địa phận làng Trung Quy xưa. Hiện di tích thuộc địa phận xóm 6 xã Quang Thiện huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình.
Theo nội dung bia đá dựng năm Tự Đức thứ 31 (1878) có tại di tích thì ban đầu, miếu làng Trung Quy được lợp bằng gianh, chưa bền vững. Năm Ất Sửu (1865), ông Phát khoa Tú tài Lại Đức Hợp họp bàn với các cụ kỳ lão chuẩn bị để tu sửa lại. Năm Kỷ Tỵ (1869) bắt đầu việc tu sửa: xây tường, các tòa đều dùng gỗ tốt, lợp ngói, tôn cao nền. Thượng lương tại Tiền đường di tích có ghi: Hoàng triều Khải Định năm thứ 7 (1922), trùng tu tòa Tiền đường. Năm 1952, do bị thực dân Pháp đốt phá đền thờ Tam Thánh (ở cạnh quốc lộ 10) và xây dựng lô cốt tại đó, nên nhân dân đã rước Đức Thánh Trần và thánh Mẫu về thờ tại miếu như hiện nay.
Miếu làng Trung Quy là nơi thờ cúng, tưởng niệm Thánh Tứ Dương Hầu Phạm Tử Nghi, vị tướng thời Mạc, nhân dân tôn thờ ông như vị thành hoàng làng. Là nơi thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo và Thánh mẫu Liễu Hạnh - những vị thần quan trọng của tín ngưỡng Việt. Di tích cũng là nơi thờ cúng, tưởng niệm chiêu mộ Trần Đình Quy, người có công đầu trong việc khai hoang lấn biển, lập nên trại Trung Quy (nay là thôn Trung Quy) và các nguyên mộ, tòng mộ.
Miếu Trung Quy được xây dựng theo kiểu chữ Tam, gồm ba toà: Tiền đường, Trung đường và Hậu cung. Nhìn chung, di tích còn giữ được những nét kiến trúc cổ kính thời Nguyễn. Ngoài ra, tại di tích còn có phủ là nơi thờ mẫu và nhà Tổ nơi thờ cụ chiêu mộ Trần Đình Quy và các cụ nguyên mộ, tòng mộ có công lao lập nên trại Trung Quy (nay là thôn Trung Quy).
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp: Miếu Trung Quy là cơ sở phục vụ chiến đấu. Các tổ chức quân sự, chính trị của huyện Kim Sơn, của xã Quang Trung thường hội họp tại miếu để bàn kế hoạch đánh địch, chống địch càn quét. Miếu cũng là nơi huấn luyện quân sự cho lực lượng du kích và là nơi cất giấu vũ khí đạn dược. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: sân miếu là nơi dân quân tự vệ huấn luyện quân sự, tập trung bắn máy bay. Sân miếu được sử dụng làm sân kho của Hợp tác xã Nam Tiến.
Hiện nay, tại miếu làng Trung Quy còn giữ được một số hiện vật có giá trị bằng giấy, gỗ, đá, đồng như sau: 12 sắc phong của các đời vua triều Nguyễn (2 sắc phong năm 1846, 1853, 1854, 1880, 1886, 1909, 4 sắc phong năm 1924); 02 bia đá đời vua Tự Đức, 03 đôi lục bình bằng sứ, thời Thanh, 02 bát hương bằng sứ, thời Thanh, 03 bát hương bằng sứ thời Nguyễn, 03 nhang án bằng gỗ thời Nguyễn, 02 chiêng đồng thời Nguyễn…
Hàng năm, tại di tích diễn ra các hoạt động văn hóa, lễ hội như: Lễ Thượng nguyên (15 tháng Giêng), Ngày kỵ mẫu (mùng 3 tháng 3), Ngày kỵ đức Thánh Trần (20 tháng 8), Ngày kỵ thành hoàng - Thánh Tứ Dương Hầu Phạm Tử Nghi (14 tháng 9), Ngày kỵ cụ chiêu mộ Trần Đình Quy (mùng 4 tháng 10).
Miếu làng Trung Quy được UBND tỉnh Ninh Bình xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2011./.
KHÁI QUÁT DI TÍCH MIẾU LÀNG LƯU QUANG
Di tích có tên gọi là Miếu làng Lưu Quang (Theo các cụ cao niên trong làng thì hai từ Lưu Quang ở đây theo nghĩa chữ Hán, tạm dịch là dòng chảy sáng). Di tích hiện thuộc địa bàn xóm 11 xã Quang Thiện.
Về thời điểm xây dựng miếu: Căn cứ theo lời kể của các cụ cao niên và các tài liệu còn lưu gì thì ngay sau khi trại Bảo Quang (sau này đổi là Lưu Quang) được thành lập vào năm 1829 nhân dân trong trại đã tổ chức xây dựng miếu.
Miếu làng Lưu Quang là nơi thờ thần Bản Thổ, thần Đại La và chiêu mộ Vũ Tiên Lãng, bán chiêu mộ Trần Đoàn Đạt (cùng quê làng Trà Lũ, Xuân Thuỷ, Nam Định), cùng các nguyên mộ có công chiêu dân lập làng.
Về kiến trúc: Ba tòa Tiền đường, Trung đường và Chính cung được kết cấu theo hình chữ Tam (三). Hiện nay tại di tích còn lưu giữ được một số loại hiện vật quý thời Nguyễn đăc biệt như: Mười hai sắc phong dưới các thời vua triều Nguyễn, trong đó sắc phong sớm nhất là ngày 11 tháng 2 năm thứ 6 đời vua Tự Đức (1853). Cùng với đó là các tượng thờ, thần Đại La, tượng bằng gỗ được tạc ở tư thế ngồi; Hệ thống câu đối bằng gỗ; Một chiếc chuông đồng thời Nguyễn; Một chiếc nậm rượu thời Thanh, vẽ lam trắng với chủ đề rồng mây, miệng bịt đồng.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, miếu làng Lưu Quang là nơi diễn ra nhiều hội nghị, nhiều lớp tập huấn do huyện và xã tổ chức, đây cũng là địa điểm thanh niên địa phương đến tập võ để chuẩn bị lực lượng chiến đấu với địch. Bản thân trong miếu và vườn xung quanh miếu có đào nhiều hầm bí mật cho cán bộ và bộ đội ẩn nấp. Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ có một bộ phận của văn phòng huyện ủy huyện Kim Sơn, cùng với nhân dân địa phương đào hầm tại miếu để tránh bom đạn, mở trường Đảng đào tạo đảng viên trong huyện.
Hàng năm tại miếu tổ chức các hoạt động lễ hội và sinh hoạt văn hóa (tính theo âm lịch) như: Lễ hội Kỳ Yên (Kỳ An, Kỳ Phúc) diễn ra từ ngày 13 đến hết ngày 15 tháng Giêng; Lễ Rằm tháng Hai (Ngày giỗ Thành hoàng làng, Thần Đại La); Lễ giỗ cụ bán chiêu mộ Trần Đoàn Đạt (diễn ra vào ngày 25 tháng 2); Lễ giỗ chiêu mộ Vũ Duy Lãng (diễn ra vào ngày 5 tháng 5); Ngày lễ cơm mới diễn ra vào ngày 15 tháng 10.
Trải qua gần 200 năm, qua nhiều lần trung tu di tích còn lưu giữ được yếu tố gốc như kết cấu kiến trúc xây gạch cuốn vòm bằng vật liệu truyền thống là vôi và mật ở tòa Chính cung.
Miếu làng Lưu Quang được Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình công nhận là di tích lịch sử năm 2009.
KHÁI QUÁT DI TÍCH MIẾU HỒI THUẦN
Di tích có tên gọi là miếu Hồi Thuần, vì miếu được xây dựng và phát triển ở địa phận làng Hồi Thuần. Hiện nay miếu nằm ở địa phận xóm 1, xã Hồi Ninh, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Theo các cụ cao niên kể lại, di tích được xây dựng năm Bính Ngọ, đời vua Thiệu Trị thứ 6 (1846), lúc đầu di tích được xây dựng đơn sơ và quy mô nhỏ gọn, về sau được nhân dân tu bổ, nâng cấp khang trang hơn: Năm 1906, trùng tu Tiền đường; Năm 1970, xây lại Tiền đường, Trung đường; Năm 1989, tu sửa Hậu cung; Năm 1997, xây dựng 4 gian nhà khách; Năm 2010, xây lại Hậu cung; Năm 2015, trùng tu lại Tiền đường, Trung đường; Năm 2016, xây thêm 5 gian nhà khách (mái bằng).
Về kiến trúc: Miếu Hồi Thuần được xây dựng theo kiểu chữ Đinh ( ) gồm Tiền đường, Trung đường và Hậu cung. Nhìn chung di tích còn giữ được những nét kiến trúc và các mảng chạm khắc
Bạn quan tâm mục gì nhất trong Website của chúng tôi?
-
TB về việc cắt giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp huyện, cấp xã
Thứ ba, 29/04/2025 124 lượt xem
-
Thông báo về việc tổ chức lấy ý kiến tham gia vào điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
Thứ hai, 28/04/2025 213 lượt xem
-
THÔNG BÁO Về việc tổ chức lại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện Kim Sơn
Thứ ba, 25/03/2025 356 lượt xem
-
TB Công bố công khai Kế hoạch sử dụng đất năm 2025 huyện Kim Sơn
Thứ ba, 11/03/2025 545 lượt xem
-
Thư mời về việc báo giá cho hoạt động: Tập huấn hướng dẫn Thông tư số 24/2024/TT-BTC và hướng dẫn cập nhật những thay đổi trên phần mềm kế toán
Chủ nhật, 09/03/2025 263 lượt xem
-
V/v tổ chức lấy ý kiến về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Ban hành: 06/07/2025
-
QUYẾT ĐỊNH Về việc giao đất cho bà Phạm Thị Thu Hiền, địa chỉ tại xóm 5, thị trấn Bình Minh, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
Ban hành: 15/05/2025
-
QUYẾT ĐỊNH Về việc giao đất cho ông Hoàng Văn Thấu và vợ là bà Phan Thị Miền, địa chỉ tại xóm 3, xã Kim Trung, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
Ban hành: 15/05/2025
-
QUYẾT ĐỊNH Về việc giao đất cho ông Nguyễn Duy Tùng, địa chỉ tại xã Yên Lộc, huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình
Ban hành: 15/05/2025
-
QUYẾT ĐỊNH Về việc giao đất cho ông Nguyễn Duy Tùng, địa chỉ tại xã Yên Lộc, huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình
Ban hành: 15/05/2025
-
QUYẾT ĐỊNH Về việc giao đất cho bà Vũ Thị Thoa, địa chỉ tại phố Phát Diệm Tây, thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
Ban hành: 15/05/2025
-
QUYẾT ĐỊNH Về việc giao đất cho ông Đinh Văn Cuông và vợ là bà Nguyễn Thị Huyền, địa chỉ tại phường Nam Thành, thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình
Ban hành: 15/05/2025
-
QUYẾT ĐỊNH Về việc giao đất cho ông Đinh Văn Hoà, địa chỉ tại xã Mạn Lạn, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ
Ban hành: 15/05/2025
-
QUYẾT ĐỊNH Về việc giao đất cho ông Bùi Ngọc Hân và vợ là bà Nguyễn Thị Biên, địa chỉ tại phường Ninh Khánh, thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình
Ban hành: 15/05/2025
-
QUYẾT ĐỊNH Về việc cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
Ban hành: 06/05/2025
Lượt truy cập: 2537058
Trực tuyến: 25
Hôm nay: 1101